Từ cái nôi của mình, đất nước Mặt Trời Mọc, thơ Haiku không hề có vần. Điều này dễ hiểu, ngôn ngữ Nhật Bản cũng như các ngôn ngữ đa âm khác, vì không có hoặc ít dấu cho thanh ngữ nên việc gieo vần là khó và không cần thiết.
Người Việt Nam thì ngược lại, vần điệu vốn trở thành nhu cầu ngay cả trong đời sống thường nhật chứ chưa nói đến thơ. Khi quảng cáo , người ta nói về tác dụng của một loại thuốc là “Khỏe bụng con, tròn giấc mẹ”! Ở một cửa hàng dịch vụ giặt quần áo thì ghi “Giặt sấy lấy ngay”. Nói về hành vi của cơ sở sang chiết ga, đài truyền hình bảo ở đây “Cắt tai mài vỏ” bình ga để làm hàng giả. Còn đưa tin một bãi giữ xe chụp giật, nhà đài kêu họ đã “Đánh tráo tháo trộm” gương xe của khách gửi. …Quả thật khi gieo vần cho câu nói, nội dung của nó dễ ngấm và gây ấn tượng hơn nhiều.
Từ xa xưa, ngay trong ca dao tục ngữ, dân ca hò vè đều coi vần là một yếu tố quan trọng, hãy điếm xuyết đôi dòng minh chứng :
“Chớp đông nhay nháy
Gà gáy thì mưa”
“Ve vẻ vè ve
Cái vè lá lốt
Anh A cũng tốt
Chị B cũng xinh
Hai bên dập dình
Bà C làm mối !”
“Bao giờ đom đóm bay ra
Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng”
“Thấy người sang bắt quàng làm họ”
“Không ai giầu ba họ
Chẳng ai khó ba đời”
Trong thơ, yêu cầu này càng khắc nghiệt. Xin đề cử vài ví dụ :
“Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén
Bút mới xô tay thử một hàng
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ tổng
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang
Một năm một tuổi, trời cho tớ,
Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng …” (Khai bút-Nguyễn Khuyến”
Ngay cả thơ của “Phong trào thơ mới”, nhiều bài cũng vẫn chú ý đến vần, ngoài nhịp điệu của thi phẩm :
“Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…”
(Trích “Tiếng sáo Thiên Thai”-Thế Lữ)
Những bài thơ dù gọi là Tự do cũng chỉ khoáng đạt ở số từ trên một dòng, số dòng trong một bài và cách gieo vần linh hoạt hơn thôi chứ vần điệu chưa hề bỏ qua :
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Của ong bướm này đây tuần trăng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của bướm ong này đây khúc tình si…”
(Trích “Vội vàng” của Xuân Diệu)
Chỉ có gần đây, loại “Thơ văn xuôi” do một số người viết trẻ đề xướng mới bỏ qua cả vần và điệu. có lẽ cũng chính vì thế mà thể loại này chưa có sức lan tỏa rộng thì phải.
Với thơ Haiku, khi vào Việt Nam, có nhiều người cũng tìm cách gieo vần cho nó. Những cách gieo vần được nhiều người sử dụng thường là :
Vần chân: bằng-bằng-trắc .
“Xõa tóc huyền
Mặt hồ bình yên
Gợn sóng” (Lương Thị Đậm).
“Ngày em đi
Nâng ly
Uống sóng” (Lý Viễn Giao)
“Tuổi học trò
Tròn vo
Trái sấu” (Nguyễn Hoàng Lâm)
“Gió đưa hoa cải bay đi
Triền sông bờ cỏ xanh rì
Nhớ nắng” (Mai Liên).
“Chuông ngân nga
Thiết tha
Cứu rỗi” (Thanh Vân).
Vần chân: bằng-bằng-bằng .
“Bé con
Theo mẹ ra đồng
Ngủ gật mép sông” (Cao Ngọc Thắng).
Vần chân: trắc-bằng-bằng :
“Mạng nhện
Rung giọt sương
Đu nhớ thương” (Nghiêm Xuân Đức).
Vần chân: Trắc-trắc-bằng.
“Cỏ may găm áo
Khờ khạo
Ngày xưa” (Lý Viễn Giao)
Hoặc vần lưng, gieo trắc :
“Tiếng rao đêm
Lạnh lùng ngõ phố
Bán khổ cho ai” (Lam Hồng)
Vần lưng, gieo bằng :
“Biển lặng lờ
Trăng mờ ảo
Tình lạc cõi mơ” (Vũ Tam Huề).
Cũng có những phiến khúc Haiku không gieo vần nhưng tạo nhịp điệu làm phương tiện dẫn dắt hứng thú cho người đọc :
“Vườn cũ, nhà xưa
Tìm đâu cuống rốn
Mẹ hong đĩa đèn” (Đinh Nhật Hạnh).
“Ráng chiều
Ánh nước
Thu trong mắt em” (Lê Đăng Hoan)
Không có bất kỳ yêu cầu nào bắt buộc thơ Haiku phải có vần điệu. Nhưng rõ ràng một bài thơ mà haijin sử dụng thủ thuật này sẽ tiếp cận người đọc theo con đường mềm mại hơn, từ đó có thể nâng mức hấp dẫn cho bài thơ. Cũng chính vì vần điệu không phải là một trong những tiêu chí của thơ Haiku mà chỉ là một sáng tạo của người Việt khi làm thơ nên cũng không có quy tắc nào trong gieo vần hết. Những ví dụ đã nêu chỉ là nhặt nhạnh dọc đường để minh chứng cho một hiện tượng . Hiện tượng Vần điệu trong thơ Haiku.
LVG