
NB được mệnh danh là “thi quốc” – đất nước thơ ca. Thơ Nhật Bản phong phú về thể loại. Bên cạnh những thể thơ du nhập từ Trung Quốc thời cổ đại, thơ Mới du nhập từ phương Tây thời cận đại, người Nhật có những hình thức thơ ca riêng của mình được gọi là waka (hoà ca) nghĩa là thơ ca của người Nhật. Nhưng thế giới biết đến nhiều hơn haiku – thể thơ được coi là linh hồn nước Nhật.
Trong cuốn Đời sống và tính cách Nhật Bản trong thơ Senryu, R.H.Blyth đã viết: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm 1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản”1. Tuy nhiên, thơ haiku kế thừa nhiều yếu tố của thơ truyền thống Nhật Bản được tinh tuyển trong các hợp tuyển thơ nổi tiếng như Vạn diệp tập, Cổ kim tập, Tân cổ kim tập. Haiku kết tinh linh hồn Nhật Bản, kết tinh những mạch nguồn thi ca truyền thống Nhật Bản.
Tiền thân của haiku là thể thơ đoản ca (tanka)- một hình thức thơ waka2, thể thơ truyền thống của Nhật Bản. Đoản ca là thể thơ ngắn, mỗi bài có 31 âm tiết, chia làm 5 dòng: 5-7-5-7-7. Thể thơ này chiếm ưu thế trong Vạn diệp tập- một thi tuyển đồ sộ tập hợp 4596 bài thơ sáng tác từ thế kỷ IV đến VIII. Về sau chúng bị ngắt làm hai để tạo những câu thơ 5-7-5 và 7-7 âm tiết. Những câu này được kết hợp đan xen với nhau tạo thành chuỗi dài gồm 36, 100, có khi nhiều hơn nữa những mắt xích gọi là thể liên ca hài hước (haikai no renga). Chúng có thể do một nhóm thi sĩ hoặc một thi sĩ sáng tác với tư cách nhóm. Đề tài là thiên nhiên bốn mùa. Thể liên ca thịnh hành ở Nhật vào thế kỷ XIV, XV. Sau đó, các nhà thơ sáng tác những bài thơ 5-7-5 âm tiết độc lập, không đứng trong chuỗi. Đến giữa thời Edo (1600- 1868), thi pháp của loại thơ 17 âm tiết này đã được định hình vững chắc. Đến TK XVII thì đạt tới đỉnh cao và trở nên lừng lẫy trên thi đàn thế giới với thi hào M.Baso, sau đó là Y.Buson, K. Itsa, M.Siki.
Đề tài của haiku cổ điển là thiên nhiên được gọi là quý đề (kidai). Thiên nhiên trong thơ haiku gắn với nhịp luân chuyển của mùa. Nên trong thơ haiku bao giờ cũng có từ chỉ mùa, có thể là từ chỉ mùa trực tiếp (quý ngữ trực tiếp) như xuân, hạ, thu, đông, có thể là từ chỉ mùa gián tiếp (quý ngữ gián tiếp) là những hình ảnh tiêu biểu của mùa. Mùa xuân có những hình ảnh như hoa đào, hoa mai, chim oanh, chim yến, …; mùa hạ có mặt trời, tiếng ve, hoa diên vĩ; mùa thu có trăng, sương, tiếng dế; mùa đông có tuyết, cánh đồng hoang, …Tuy nhiên, đây không phải là đặc điểm riêng của haiku. Thiên nhiên là đề tài được quan tâm chủ yếu của thơ ca Nhật Bản. Từ Vạn diệp tập đến Cổ kim tập, Tân cổ kim tập, thơ viết về thiên nhiên đều có số lượng lớn. Vạn diệp tập có 20 cuốn thì có quyển 8 và 10 tập trung những bài thơ về thiên nhiên theo mùa. Cũng trong 20 quyển Cổ kim tập có 6 quyển dành cho những bài thơ theo mùa với 342 bài thơ về các mùa. Từ đây có thể thấy thiên nhiên vận hành qua bốn mùa là một đề tài chính của Vạn diệp tập, Cổ kim tập. Tuy nhiên trong Vạn diệp tập, thiên nhiên được miêu tả hoà quyện với tình yêu, là phương tiện biểu đạt tình yêu. Cánh đồng mùa đông khô nứt nẻ biểu hiện cho nỗi khát khao, nhớ nhung chờ đợi tình nhân:
Em chờ anh
Như cánh đồng trước nhà
Chờ mưa, đất khô nứt nẻ,
Cũng thế
Ôi, em chờ anh… (Thái Bá Tân dịch)
Khu vườn mùa thu đầy trăng, sương, tiếng dế được tỉ dụ với trái tim đầy nỗi buồn:
Đêm đầy trăng
Tim đầy nỗi buồn
Khu vườn
Đầy sương lấp lánh,
Tiếng dế tỉ tê trong gió lạnh… (Thái Bá Tân dịch)
Trong Cổ kim tập, những bài thơ về thiên nhiên chủ yếu nói về những cảm xúc bắt nguồn từ sự giao mùa.
Đây là bài thơ Mùa xuân của Kino Tsurayuki.
Xuân đến rồi
Gió nhẹ hơn
Nước đang tan băng
Nơi mùa hè chúng tôi giặt áo.
Trần Hải Yến dịch (bài 2, quyển 1)
Tinh thần của bài thơ rất tiêu biểu cho Cổ kim tập. Các nhà thơ Cổ kim tập không phát hiện ra một thiên nhiên mới. Họ vẫn sử dụng những hình ảnh thiên nhiên đơn sơ, bình dị, nhiều khi chỉ có ở Nhật Bản như anh đào, tử đằng, hoa xương bồ, hoa sơn chi, kim tước chi, mà không sử dụng những hình ảnh ước lệ hoặc vay mượn trong văn học Trung Quốc. Hơn nữa, họ không miêu tả thiên nhiên gắn liền với những suy tư về tình yêu như trong Vạn diệp tập. Từ đây, Shuichi Kato đó đi đến nhận định rằng: ‘’Cảm xúc mang tính Nhật Bản nổi tiếng đối với thời tiết dẫn đến đề tài mùa màng trong thơ haiku là bắt đầu từ đây (tức là từ Cổ kim tập) cũng như chủ đề thường được gọi là tình yêu Nhật Bản đối với thiên nhiên’’. ‘’Đây chính là hợp tuyển cung đình đầu tiên của thơ waka, tạo ra những khuôn mẫu cho “cảm xúc Nhật Bản về bốn mùa” và cho “tình yêu Nhật Bản đối với thiên nhiên”3.
Lý tưởng thẩm mỹ của Cổ kim tập và cả thời đại Heian là niềm bi cảm nhân sinh mono no aware- nỗi buồn trước sự tàn phai của sự vật. Những nhà thơ của Cổ kim tập xúc động trước sắc màu rực rỡ của thiên nhiên như lá phong đỏ, hoa đào rụng, lá rơi, tuyết tan, sương rơi trên cỏ, bọt nước trên sóng- những sự rực rỡ gắn kề với sự tàn phai. Thi hứng thường nảy sinh: ‘’Khi họ ngắm nhìn những bông hoa lả tả trong buổi sáng mùa xuân, khi họ lắng nghe chiều thu tới trên những chiếc lá rơi, khi họ thở dài về tuyết và biển cả phản chiếu mỗi năm đi qua bằng chiếc gương soi của họ, khi họ thảng thốt nghĩ về sự ngắn ngủi của cuộc sống qua một giọt sương trên ngọn cỏ hay bọt nước trên sóng, khi ngày hôm qua tất cả đều huy hoàng và lộng lẫy, họ buột miệng thốt lên trong sự cô đơn hay khi đang yêu tha thiết mà bị hờ hững’’4. Như vậy, mọi sự vật đều được xem xét trong giới hạn tạm thời của nó. Trong dòng thời gian, mọi vật đều phù du. Thời gian của Cổ kim tập là ‘’một thời gian cát chảy’’, một thời gian luôn vận động. Cảm xúc gợi lên trong nhà thơ và độc giả là nỗi bâng khuâng về cái đẹp thoáng qua của cuộc sống, một cảm xúc buồn thấm thía về sự ngắn ngủi của cuộc đời. Xúc cảm này chúng ta cũng bắt gặp nhiều trong thơ haiku cổ điển. Ngắm trời đất trong một đêm mưa giông, Buson xúc động viết:
Hàng tre rũ
Những giọt nước loé sáng
Trong ánh chớp giăng (Thanh Châu dịch)
Những giọt nước đọng ở đầu lá tre loé sáng trong ánh chớp. Hình ảnh đẹp nhưng chẳng vĩnh hằng. Nó chợt hiện lên rồi lại mất đi như chưa từng có bao giờ. Nhưng đó cũng là bản chất của vạn vật trong vũ trụ. ‘’Vạn pháp vốn vô thường’’. Hoa nở. Chim hót. Mây bay. Nước chảy. Con người sống. Tất cả đều vận hành theo quy luật thành, trụ, hoại, không.
Trong bụi măng tre
Con chim hoạ mi cất tiếng hót
Bài hát của tuổi già. (Basho – Thanh Châu dịch)
Nếu các thi sĩ phương Tây ca tụng tiếng hót của con chim hoạ mi là bất tuyệt thì các nhà thơ haiku lại thấy trong giọng hót của nó dấu vết của thời gian. Trong không gian mùa xuân trẻ trung căng tràn sức sống: măng tre đâm chồi nảy lộc, hoạ mi cất tiếng hót líu lo, nhà thơ vẫn nhận ra rất rõ bước chân đang qua của mùa xuân. ‘’Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già’’ (Xuân Diệu). Nhìn hoa đang nở, các nhà thơ haiku ngậm ngùi nghĩ đến khoảnh khắc hoa tàn:
Dưới mái rơm chùa Pháp hoa
Những bông hoa mào gà
Đang bừng nở. (Shiki – Thanh Châu dịch )
Ngay trong chốn cửa Phật thanh tịnh, bước chân của thời gian vẫn vang lên thật khẽ nhưng thật vội. Cái đẹp ngắn ngủi khiến con người xiết bao bâng khuâng, xao xuyến.
Thơ haiku cũng tiếp thu lý tưởng thẩm mỹ u huyền (yugen) từ Tân cổ kim tập– tập thơ tiêu biểu của thời Kamakura. Nhờ sự cố gắng, nỗ lực của hai cha con nhà thơ Teika, lý luận thơ ca thời kỳ Kamakura đã có sự phát triển thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp của lý luận thơ ca Trung Quốc mà khẳng định giá trị thẩm mỹ mới. Lý tưởng thẩm mỹ nổi bật trong Tân cổ kim hoà ca tập cũng như của thời đại Kamakura là hữu tâm (ushin) và u huyền (yugen). Hữu tâm (ushin) là thuật ngữ chỉ một phong cách của thơ ca mà trong đó nhà thơ phải “để vẻ đẹp lắng đọng thấm thía tận đáy lòng mình rồi sau đó tìm cách đem được tấm lòng đó vào trong thơ”5. U huyền (yugen) là cảm xúc trước cái u ẩn, huyền diệu của thế giới. Đặc điểm này thể hiện sự ảnh hưởng sâu đậm của Thiền tông tới thơ ca Nhật Bản thời Kamakura nói chung và Tân cổ kim tập nói
riêng. Hướng tới ushin và yugen, các thi sĩ trong Tân cổ kim hoà ca tập chủ yếu tìm kiếm ý nghĩa ẩn sau thế giới hiện hữu chứ không phải bản thân thế giới rực rỡ sắc màu như các nhà thơ trong Cổ kim tập. Bài thơ sau đây của Fujiwara no Teika được xem như tiêu biểu cho sự biểu hiện tinh thần ushin và yugen trong Tân cổ kim tập:
Trong đất trời rộng mở
Tôi chẳng thấy hoa đào
Không thấy màu lá đỏ
Chiều mùa thu bao trùm
Lều tranh bên vịnh nhỏ
Fujiwara no Teika (Mai Liên dịch)
Trong một buổi chiều muộn mà khí sắc mùa thu bao trùm trên vịnh nhỏ, tâm hồn con người lắng đọng, phiêu diêu như đến một cõi hư không. Bài thơ dưới đây của thiền sư Myoe (1173- 1232) cũng tiêu biểu cho vẻ đẹp u huyền:
Đi về phía sau núi
Trăng ơi trăng
Ta cùng đến đó nhé
Và đêm đêm sẽ
Cùng làm bạn đồng hành
Myoe (Nhật Chiêu dịch)
Đoản thi của Myoe sáng tác trong hoàn cảnh lắng nghe tiếng chuông chùa báo hiệu canh khuya nhưng nó lại chan chứa niềm an lạc của người đã nhìn thấy vĩnh cửu. Văn hào Kawabata đã đưa ra lời bình về bài thơ trăng của Myoe như sau: “Nếu tôi hay chọn bài thơ này mỗi khi viết thủ bút cho người ta đó là vì… bài thơ ấy như bài thơ của từ bi, ấm áp, sâu sắc và tế nhị, một bài thơ chứa đựng niềm im lặng có chiều sâu của tinh thần Nhật Bản”6. Lý tưởng thẩm mỹ u huyền xâm nhập vào sân khấu No, và cả các tác phẩm ra đời sau này. Đặc biệt, trong thơ haiku nói chung và haiku của thi hào Basho nói riêng, u huyền là một trong những lý tưởng thẩm mỹ cơ bản. Hãy đọc bài thơ sau đây của Basho:
Cành khô
Cánh quạ đậu
Chiều thu. (Nhật Chiêu dịch)
Màn sương xám bao trùm chiều thu; cánh quạ đậu hiu hắt trên cành khô khẳng khiu in trên nền trời mờ xám. Thế giới không sắc màu rực rỡ, không vận động dường như đang dần dần chìm vào bóng tối, tịch lặng. Bài thơ thấm đẫm nỗi niềm sầu bi của một tuổi già hiu quạnh, cô liêu.
Làn gió run rẩy
Trên những chùm bông cỏ bạc:
Một cõi lòng cô quạnh (Issa – Thanh Châu dịch)
Bài thơ của Issa cũng đưa ta đến với một không gian thu, nhưng là không gian bàng bạc của một cánh đồng đầy cỏ bạc. Những bông hoa cỏ mỏng manh lay động cho ta cảm nhận làn gió đang run rẩy trên cánh đồng chiều mênh mông. Ẩn sau hình ảnh đơn sơ hiu hắt là một cõi lòng “cô quạnh”, hoang liêu.
Thơ Tân cổ kim tập hứng thú cao với việc xây dựng hình ảnh tượng trưng, sử dụng những kỹ thuật khiến thơ hàm súc, giàu sức gợi hơn. Đây cũng là đặc điểm nghệ thuật nổi bật của thơ haiku. Thơ haiku rất ngắn, mỗi bài chỉ có 17 âm tiết, thi thoảng mới có bài 19 âm. Tiếng Nhật là ngôn ngữ đa âm, vì vậy số âm tiết trong một bài haiku chỉ tương đương với khoảng xấp xỉ 10 từ. Với số lượng từ như vậy, thơ haiku không thể diễn giải, luận lý dông dài. Các nhà thơ chỉ có thể phác hoạ, hay gọi tên một hay một vài hình ảnh hoặc âm thanh giống như là trong hư không, nhà thơ nhẹ thả vào những hình ảnh, âm thanh, rồi để chúng tự bồng bềnh trôi. Chính vì điều này nên trong thơ haiku, danh từ chiếm số lượng chủ yếu, trạng từ, động từ, tính từ bị hạn chế tối đa. Những hình ảnh, âm thanh đó trở nên khái quát, đa nghĩa, giàu tính tượng trưng hơn là cụ thể, đơn nghĩa, trực tiếp.
Cầm trên tay (nắm tóc)
Tan mất, giọt lệ nóng hổi
Sương mùa thu. (Basho – Đoàn Lê Giang dịch)
Cuộc đời Basho giống như một áng mây hoang dại trôi dạt bốn phương. Ông hành hương nay đây mai đó. Khi hay tin mẹ mất, nhà thơ ở rất xa, không kịp về nhà chịu tang. Lúc về đến cố gia, người anh trao cho ông kỷ vật của mẹ là một nắm tóc có pha những sợi bạc. Nâng trên tay nắm tóc, nhà thơ không nén nổi nỗi buồn, giọt nước mắt nóng hổi rơi. Quý ngữ “sương mùa thu” được thả bồng bềnh trong khoảng hư không của bài thơ mang ý nghĩa gì? Nó liên hệ gì với những hình ảnh còn lại trong bài như nắm tóc trên tay, giọt lệ nóng hổi? Có lẽ hình ảnh sương mùa thu tỉ dụ cho nắm tóc pha sương của người mẹ bởi mái tóc bạc thường được ví với tóc pha sương:
Mẹ già mái tóc pha sương
Con thơ măng sữa vả đương bù trì. (Chinh phụ ngâm– Đoàn Thị Điểm)
Cũng có thể giọt sương là hình ảnh so sánh với giọt lệ của nhà thơ bởi giọt nước mắt của người già cũng được ví với giọt sương:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan (Khóc Dương Khuê– Nguyễn Khuyến)
Nhưng cũng có thể, giọt sương là ẩn dụ của cuộc đời ngắn ngủi:
Đời chỉ là giọt sương mai trên cánh lá sen (Bài 27, Người làm vườn– Tagore)
Thân như điện ảnh có rồi không
Vạn vật xuân tươi, thu não nùng
Vạn vật thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông (Ngôn hoài– Vạn Hạnh thiền sư)
Xem ra hình ảnh “giọt sương thu” trong thơ Basho thật đa nghĩa, thật giàu ý nghĩa tượng trưng. Nó khiến vãn ca khóc mẹ của nhà thơ trở thành bi ca cho số phận con người. Hình ảnh trăng, hoa đinh hương, du nữ trong bài thơ sau của Basho cũng được khai thác ở tầng ý nghĩa tượng trưng:
Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương. (Basho – Nhật Chiêu dịch )
Bài thơ được Basho sáng tác trên đường ông hành hương lên ải Ichiburi. Tình cờ ông trọ trong cùng một mái quán với hai cô du nữ. Sáng hôm sau chia tay, nhà thơ đã cảm hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ chỉ dùng một thủ pháp nghệ thuật duy nhất là liệt kê, kể tên các hình ảnh, sự vật rồi đặt chúng cạnh nhau: quán bên đường, các du nữ ngủ, trăng, hoa đinh hương, và cả nhân vật trữ tình ẩn mật. Nhưng chính việc đặt các sự vật cạnh nhau như những mắt xích đã tạo ra mối quan hệ bình đẳng giữa các sự vật trong chuỗi. Trong cảm quan của Basho, không có sự vật nào là hèn mọn, kể cả những cô du nữ, những người bị coi là đã lặn ngụp trong đáy sâu cuộc đời ô trọc. Khi ngủ, họ trở về với Phật tính an lạc, hoà làm một với trăng sao, hoa lá thanh tao. Vạn vật đều đóng vai trò yếu tính của vũ trụ. Mọi sự phân biệt cao thượng hay thấp hèn, thiện hay ác, phải hay trái đều chỉ tồn tại trong chủ quan của chúng ta.
Khởi lên từ thi ca truyền thống : kế thừa thể thơ, đề tài, chủ đề, lý tưởng thẩm mỹ, nghệ thuật biểu đạt, thơ haiku đã tiếp nối những mạch nguồn tốt đẹp của thơ ca Nhật Bản. Đồng thời, haiku cũng đã có bước phát triển mới với những sáng tạo thiên tài của thi hào Basho và những người sau ông như Buson, Issa, Shiki, …Chính sự kết hợp tài tình giữa những mạch nguồn truyền thống với những sáng tạo độc đáo đã đưa haiku lên đến đỉnh cao của thơ Nhật Bản, trở thành đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca Nhật Bản trên thi đàn thế giới.
Nguyễn Thị Mai Liên
…
1. R.H.Blyth, Japanese life and Character in Senryu, Hokuseido Tokyo, 1960
2. Hoà ca (waka) có nghĩa là thơ ca của người Nhật bao gồm ba hình thức là đoản ca (tanka), trường ca (chôka) và tuyền đầu ca (sedoka). Mỗi bài đoản ca có 31 âm tiết chia làm 5 dòng 5-7-5-7-7. Trường ca không hạn định về số lượng. Tuyền đầu ca là những bài thơ có 6 dòng chia thành 5/7/7/5/7/7.
3. Shuichi Kato- Lịch sử Văn học Nhật Bản, Tập 1, Trần Hải Yến dịch, Tài liệu Viện Văn học, trang 98
4.Keene Donald- Anthology of Japanese literature : from the earlies era to the midnineteenth century, Charles E. Tuttle company, Tọkyo, 1984, tr 76
5. Nguyễn Nam Trân- Tổng quan văn học Nhật Bản, nxb Giáo dục Việt Nam, H, 2011, trang 142
6. Nhật Chiêu – Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, nxb Giáo dục, H, 2003, tr 153