Tính dục trong Haiku của Bashô – Nhật Chiêu

alt
(Thiếu nữ Nhật Bản và chiếc gương màu đen – Balthus, 1967)


猫の妻竃の崩れより通ひけり
neko no tsuma/ hetsui no kuzure yori/ kayoikeri

Nàng mèo
nơi gian bếp đổ
thường đón đưa yêu

Nàng mèo của Bashô đa tình nên xó bếp hoang thường có khách như bếp cần lửa. Nhà thơ cũng gợi một chương trong Truyện Ise nơi một tiểu thư đón tình nhân đến với mình qua khe hở vách đất trong vườn.
*

猫の恋やむとき閨の朧月
neko no koi/ yamu toki neya no/ oborozuki

Ngừng cuộc yêu đương
đôi mèo khuê các
trăng đã mờ sương

Chuyện mèo yêu đương hẳn rồi. Nhưng neya là Khuê, tức khuê phòng thì nhân hóa đậm. Mờ sương vì không gian ẩm hơi lạnh mùa xuân dâng lên từ biển cũng là biểu tượng tình.
*

夕顔や酔うて顔出す窓の穴
yūgao ya/ youte kao dasu/ mado no ana

Hoa tịch nhan chiều nay
ô cửa hoa vừa mở
lộ mặt nồng hơi say

Tịch nhan là nhan sắc chiều, như triêu nhan là nhan sắc ban mai. Tịch nhan có thể là bông bí ở Việt Nam là moonflower ở nơi khác. Gì cũng được mà hoa. Miễn là hoa mở cửa mình. Hồng. Đẹp. Say.

*

濡れて行くや人もをかしき雨の萩
nurete yuku ya/ hito mo okashiki/ ame no hagi

Ôi đinh hương đầu mùa
có người đi ướt đẫm
lặng nhìn em trong mưa

Ướt đẫm trong nguyên văn là nure thường đa nghĩa trong thơ ca Nhật. Ướt gì? Mưa, sương, lệ và cả giọt ái ân. Nước vẫn là biểu tượng tình. Chiêm ngưỡng cỏ thu đinh hương trong mưa là một mê tình.

*

牡丹蘂深く分け出づる蜂の名残り哉
botan shibe fukaku/ wakeizuru hachi no/ nagori kana

Từ nhụy mẫu đơn
con ong vào sâu ấy
bay ra tần ngần

Bài haiku này có hình thức bất thường : 8- 8-5. Dường như chia tay là dùng dằng khôn kham dù là bạn hay tình. Luyến ái lụy. Kinh Duy Ma từng nói Dâm tình như Giải thoát. Là thiền đấy.

*

この秋はなんで年よる雲に鳥
kono aki wa/ nande toshiyoru/ kumo ni tori

Mùa thu này
đã già rồi đấy
chim vào trong mây

chuunen no/ otoko no miryoku/ tori kumo ni
Mị lực đầy/ người đàn ông đứng tuổi/ chim vào trong mây – Shizuko
Hãy nói về miryoku tức mị lực. Ta không sống trong trọng lực. Mà là trong mị lực. Mị lực của cái đẹp và tình yêu . Hay mị lực của cái chết? Shizuko là nhà thơ nữ từng làm kỹ nữ thế kỷ hai mươi. Thơ nàng đầy mị lực. Một thứ haiku sắc tình chân thực. Chim trong mây qua hai bài haiku trên gợi ra cái bay bổng đầy mị lực cũng như cái chìm sâu cũng đầy mị lực. Và do đó cũng đầy nhục cảm.
*
ひ れ 振 り て め じ か も 寄 る や 男 鹿 島
hire furi te/ mejika mo yoru ya/ Oga no shima

Lông đuôi ve vẩy
ôi nàng hươu ấy
băng mình đến đảo Nai Trai
び い と 啼 く 尻 声 悲 し 夜 の 鹿
bii to naku/ shirigoe kanashi/ yoru no shika
Kêu bi i
con nai đêm ấy
giọng tình ai bi
Đảo Oga (Nam Lộc) có cái tên có thể hiểu là đảo hay bán đảo của những chàng nai. Bashô hài hước rằng nàng nai lao tìm các chàng của mình trên đảo ấy. Con người khác chi nai có thể chia làm hai loại: phường mê trai và phường mê gái. Bài sau là tiếng kêu tình. Dường như vọng từ một chuyến đi dạo ban đêm quanh hồ ở Nara với con trai của người tình xưa đã mất.
*
美しきその姫瓜や后ざね
utsukushiki/ sono hime uri ya/ kisaki zane
Đẹp ẩn trong nàng
hạt vàng dưa công chúa
tỏa hương nữ hoàng
Dưa công chúa (hime uri) là tên người Nhật gọi một loại dưa hồng. Nhà thơ nhìn vào nhân hạt (zane) của dưa và đã thấy cái đẹp nữ hoàng của công chúa nhỏ. Như thế là nhìn rất sâu vào cái đẹp bí ẩn kín nhiệm của nữ tính bởi vì nhân hạt zane cũng là sane tức âm vật (clitoris). Bạn thấy đó Bashô cho thơ chạm đến tận cùng tính nữ. Thử liên tưởng đến nhựa mít của Hồ Xuân Hương đi.
*
梅 柳 さ ぞ 若 衆 か な 女 か な
ume yanagi/ sazo wakashu kana/ onna kana
Liễu và mơ
một trai đồng tính
một nàng gái tơ
鶯 を 魂 に ね む る か 嬌 柳
uguisu o/ tama ni nemuru ka/ taoyanagi
Ôi chim oanh
linh hồn mơ ngủ
cây thùy liễu xanh
Thơ Bashô không bỏ sót điều gì của đời sống. Do vậy ông hài hước gom lá liễu hoa mơ vào trai đồng tính và gái đẹp. Tự nhiên thôi mà. Cái nhìn hồn nhiên từ thế kỷ 17. Chim oanh và liễu thường sánh đôi trong xuân tình và như có chung linh hồn vậy.
*

秋 を 経 て 蝶 も な め る や 菊 の 露

aki o hete/ chō mo nameru ya/ kiku no tsuyu

Bay qua mùa thu

con bướm dường như

uống sương hoa cúc

蝶 も 来 て 酢 を 吸 ふ 菊 の 膾 哉

chō mo kite/ su o sūkiku no/ namasu kana


Con bướm bay vào

món gỏi hoa cúc

nếm vị thanh tao

物 好 き や 匂 は ぬ 草 に と ま る 蝶

monozuki ya / niowanu kusa ni / tomaru chō

Lạ thường

ôi con bướm đậu

trên cỏ vô hương

Con bướm của Bashô thích uống sương hoa cúc hoặc hương vị từ món ăn làm từ hoa cúc. Như người uống trà. Rất sành điệu và phong lưu bay qua mùa đời. Hơn nữa bướm còn đáp trên cỏ vô hương. Nguyễn Du nói Vô tự thị chân kinh mà.

*
春 雨 の 木 下 に つ た ふ 清 水 哉
harusame no/ koshita ni tsutau/ shimizu kana
Mưa mùa xuân
từ cây buông xuống
một dòng suối trong
紙 衣 の 濡 る と も 折 ら ん 雨 の 花
kami ginu no/ nuru tomo oran/ ame no hana
Vớt hoa trong mưa
mặc áo tơi giấy
ướt cũng chưa vừa
結 ぶ よ り 早 歯 に ひ び く 泉 か な
musubu yori / haya ha ni hibiku / izumi kana
Buốt cả răng mình
khi vừa vốc nước
từ khe suối lên
Nước mùa xuân. Tình.Thơ nói về nước như nói về phục sinh tình yêu trên mặt đất thảm họa này.
*
蒼 海 の 浪 酒 臭 し 今 日 の 月
sōkai no/ nami sake kusashi/ kyō no tsuki
Chén trăng đầy
sóng thơm mùi rượu
biển xanh say
秋 来 ぬ と 妻 恋 ふ 星 や 鹿 の 革
aki ki nu to/ tsuma kou hoshi ya/ shika no kawa

Đêm thất tịch nào
với nàng ân ái
trên da thảm hươu sao
三ヶ 月 や 朝 顔 の 夕 べ 蕾 む ら ん
mikazuki ya/ asagao no yūbe/ tsubomu ran
Vầng trăng khuyết
như cánh triêu nhan
uốn cong mình tàn
Lấy trăng làm chén để uống một thứ sake từ sóng biển mà say. Là trận chơi kỳ tuyệt của thơ. Lại còn ân ái dưới đêm sao thất tịch trên tấm thảm làm bằng da hươu sao. Đến khi trăng khuyết như một cánh hoa triêu nhan tàn. Đã sao đã sao. Say trăng sao mà.
*

散 る 花 や 鳥 も 驚 く 琴 の 塵
chiru hana ya/ tori mo odoroku/ koto no chiri
Hoa đào rơi
mà chim kinh động
đàn ai bụi thoảng hơi
鶯 の 笠 落 し た る 椿 か な
uguisu no/ kasa otoshitaru/ tsubaki kana

Chim oanh ơi
làm rơi mất mũ
hoa trà rồi ư
盃 に 泥 な 落 し そ 群 燕
sakazuki ni/ doro na otoshi so/ mura tsubame

Chim én làng ơi
đừng rơi bùn làm tổ
vào trong chén rượu tôi
Thơ Vương Duy: Nguyệt xuất kinh sơn điểu. Bashô dùng lại chữ KINH ấy và thay trăng bằng hoa. Đọc 2 câu thơ bên nhau thì thấy ánh trăng và hoa lay động cánh chim rất yêu. Trong thế giới lặng lẽ mọi động chạm đều như dâng trào ý tình. Hoa rơi chim sợ bụi thoảng đóa trà rớt như chiếc mũ hay bùn làm tổ chim nhỏ vào chén rượu… mọi thứ nhỏ nhoi mà mông mênh.
*

蝶 鳥 の 浮 は つ き 立 つ や 花 の 雲
chō tori no/ uwatsuki tatsu ya/ hana no kumo
Hoa đào ôi mây
chim và bướm lượn
cánh reo suốt ngày
蝶 の 飛 ぶ ば か り 野 中 の 日 影 哉
chō no tobu/ bakari nonaka no/ hikage kana

Một mình chơi
trên cánh đồng nắng
cánh bướm ơi
起 き よ 起 き よ 我 が 友 に せ ん 寝 る 胡 蝶
okiyo okiyo/ waga tomo ni sen/ neru kochō
Ngừng mơ ngừng mơ
ôi con bướm ngủ
cùng ta giang hồ
Hoa đào đan nhau như trải mây. Chim bướm lượn cánh reo mừng như trải mây. Mây bay như miền cực lạc. Và nắng trải như cánh đồng vui. Và bướm kết bạn với người. Mộng hồ điệp chơi đùa nhân gian.
*
山 吹 や 宇 治 の 焙 炉 の 匂 ふ 時
yamabuki ya/ Uji no hoiro no/ niou toki
Trà Uji rang
mang mùa thơm đến
cho hoa hồng vàng
koi no ato/ jasumin cha kaoru/ ame no azumaya
Lều tranh mưa bay
vừa xong ân ái
trà thơm hoa nhài
Ikuyo
Trà mang hương thơm đến đời này. Trà xứ Uji sấy rang làm thơm hoa hồng vàng vốn không hương. Bashô yêu hương vị đời từng cánh lá nụ hoa. Đời là một mùa thơm. Dẫu sao đi nữa. Nữ sĩ Ikuyo thế kỷ 20 erotic hơn. Và ta có trà thơm của ái ân như trong Ngàn Cánh Hạc.
*

夕 顔 に 見 と る る や 身 も う か り ひょ ん
yūgao ni/ mitoruru ya mi mo/ ukari hyon
Bên hoa tịch nhan
thân hình diễm ảo
ai trôi mơ màng
馬 に 寝 て 残 夢 月 遠 し 茶 の 煙
uma ni nete/ zanmu tsuki tōshi/ cha no kemuri
Ngồi ngựa mơ màng
ánh trăng tàn mộng
khói trà lan lan
旅 に 病 で 夢 は 枯 野 を か け 廻 る
tabi ni yande/ yume wa kare no o/ kake meguru
Đau yếu nửa đường
hồn còn phiêu lãng
mộng giữa đồng hoang
Bashô là du tử không chỉ của thiên nhiên mà còn của mộng. Hoa tịch nhan, sắc thân diễm ảo, khói trà bay vương cùng ông trôi nổi trên những cánh đồng hoang mà ông không ngừng khám phá. Với du tử thơ đường đời là đạo. ĐẠO.

*

わ が 宿 は 四 角 な 影 を 窓 の 月
waga yado wa/ shikakuna kage o/ mado no tsuki
Căn buồng
ánh sáng cửa sổ
một vầng trăng vuông
梢 よ り あ だ に 落 ち け り 蝉 の 殻
kozue yori/ adani ochi keri/ semi no kara
Từ cành cao
hư không rơi xuống
trong vỏ ve sầu
Tùy duyên mà trăng có hình sắc khác nhau. Cả hư không cũng thế. Vì thế trăng có thể vuông hình nơi cửa sổ bé và hư không có thể gói mình trong xác vỏ ve sầu nhỏ xíu mà rơi. Mà chơi.
*

花 木 槿 裸 童 の か ざ し 哉
hana mukuge/ hadaka warawa no/ kazashi kana

Trên tóc chơi
cánh hoa dâm bụt
tôi trần trụi tôi
菜 畠 に 花 見 顔 な る 雀 哉
na-batake ni/ hanami-gao naru/ suzume kana
Trên đồng cải na
chim sẻ thay người
như ngắm đào hoa
Ba Tiêu không hề nghiêm trang như người ta tưởng. Đọc thơ ông rất vui. Trần trụi với ông với hoa cỏ ngoài đồng với chim sẻ ngắm hoa. Hoa cải na vàng nhỏ với mắt chim sẻ thì cũng như hoa đào trước mắt người. Đẹp thì bao dung.
*
笑 ふ べ し 泣 く べ し わ が 朝 顔 の 凋 む 時
warau beshi naku beshi/ waga asagao no/ shibomu toki
Khóc hay cười
đến thời khô héo
cành triêu nhan của tôi
朝 顔 や 昼 は 鎖 お ろ す 門 の 垣
asagao ya/ hiru wa jō orosu/ mon no kaki
Hoa triêu nhan ơi
trưa chiều khép cánh
bên cổng rào tôi
Asagao – triêu nhan, gọi tên hoa là đủ rồi. Sao còn nói ‘ của tôi ‘ – hẳn là ám chỉ gì đó trên thân thể và nó đang khô héo. Đùa thế Ba Tiêu.
Triêu nhan là nhan sắc sớm mai nên trưa chiều còn khép kín bên cổng rào ta. Đó là tịch liêu Ba Tiêu.
*
雲をりをり人をやすめる月見かな
kumo ori ori/ hito o yasumeru/ tsukimi kana
Mây xóa trăng đi
cho người nhìn ngắm
lặng dừng đôi khi
Mưa bão thôi/ trên mặt bàn ướt/ cậu bé lau bầu trời
(after the storm a boy wipes the sky from the tables)
– Darko (Croatia)
*
芭 蕉 野 分 し て 盥 に 雨 を 聞 く 夜 哉
bashō nowaki shite/ tarai ni ame o/ kiku yo kana

Nằm nghe đêm giông
xé vang tàu lá chuối
tiếng mưa rơi vào bồn
Bài thơ mở đầu bằng từ BA TIÊU là cây chuối mà cũng là bút danh Bashô. Vậy nhà thơ nằm nghe điêu linh cây lá và điêu linh chính mình trong mưa bão. Nhà thơ cứ thế nằm nghe suốt đêm cả tiếng nước nhỏ vào bồn nhỏ vào hồn. Động và tĩnh cứ đến tự nhiên…
*
朝顔の花 に鳴きゆく蚊の弱り
asagao no/ hana ni nakiyuku/ ka no yowari

Bay đến triêu nhan
những con muỗi nhỏ
hát như hơi tàn
Just as it closes…/ a small bug enters/ the morning- glory
Khép cánh nàng
khi con bọ nhỏ
đi vào triêu nhan
(Geri Barton)
Hoa triêu nhan là cái đẹp của vô thường. Thế mà dẫu hơi tàn cũng tìm đến. Đáng yêu và đáng hận trong mờ sương của đời. Hiện đại haiku Mỹ cũng đến với triêu nhan và… ập vào trong – rất thực. Thế mà!
*
行 く 秋 や 手 を ひ ろ げ た る 栗 の 毬
yuku aki ya/ te o hirogetaru/ kuri no iga
Hạt dẻ thoát ra chi
từ bàn tay của vỏ
cho mùa thu bay đi
Ba Tiêu hình dung vỏ hạt dẻ mở bàn tay của mình và mùa thu ra đi. Nhưng ai muốn thu đi và ai níu thu lại? Dửng dưng hay lưu luyến? Thế nên tôi từng diễn dịch bài thơ này thành:
Ngón tay nhỏ nhoi
hạt dẻ còn trong vỏ
xin mùa thu đừng rời
Tất nhiên diễn dịch thế là vì muốn thể hiện lưu luyến (liều xa ý văn bản gốc). Có điều bản diễn dịch này bị đưa vào cuốn Tìm Hoa Quá Bước của Hoài Anh năm 2001 mà không hề ghi tên người dịch cùng cả chục bài thơ Đông Tây từ dài đến ngắn mà tôi dịch cũng bị đạo như vậy. Đây mới là đáng tiếc chứ không phải mùa thu ra đi.
*
おもしろや今年の春も旅の空
omoshiro ya/ kotoshi no haru mo/ tabi no sora

Mê ly đời
mùa xuân này nữa
phiêu du phương trời
Mùa xuân 1689 nhà thơ dự tính đi Oku với Sora (không gian, phương trời). Dự cảm mùa xuân phía trước đầy niềm vui phiêu lữ nên reo lên omoshiro ya (mê ly!). Và tiếng reo hồn nhiên ấy vẫn đầy dư vang như tiếng nhạc mê ly đời ta của giang hồ lãng du của phương trời viễn xứ. Ôi Bashô.
*
草の戸も住み替る代ぞ雛の家
kusa no to mo / sumi kawaru yo zo / hina no ie
Này liếp cỏ ơi
bên đời sẽ đổi
nhà bé thơ chơi
Trước khi lên đường đi Oku nhà thơ bán mái lều của mình cho một gia đình có con nhỏ. Hina , đọc theo âm Hán Việt là SỒ chỉ bé thơ hoặc chim non và ở đây chỉ cả búp bê mà các bé gái Nhật được chơi đùa trong ngày hội của mình. Đã đến lúc nhà thơ làm viễn khách nhường cho bé thơ cõi tạm ấy. Ông lại là bé thơ trên vạn lý lấy lại hồn thơ trẻ dại muôn đời qua Áo Chi Tế Đạo (Con Đường Sâu Thẳm).
*
日 の 道 や 葵 傾 く 五 月 雨
hi no michi ya/ aoi katamuku/ satsuki ame
Mưa tháng năm rơi
hoa quỳ còn vọng
đường đi mặt trời
*
瓶 割 る る 夜 の 氷 の 寝 覚 め 哉
kame waruru / yoru no kōri no / nezame kana
Tiếng bình nước vỡ
nước đông cứng trong đêm
khiến ta tỉnh giấc
*
さ び し さ を 問 て く れ ぬ か 桐 一 葉
sabishisa o/ tôte kurenu ka/ kiri hito ha

Một lá ngô đồng rơi
mà sao ai không đến
bên niềm cô tịch tôi
*
冬庭や月もいとなる虫の吟
fuyu niwa ya/ tsuki mo ito naru/ mushi no gin
Trong vườn mùa đông
sợi tơ trăng mỏng
ngân nga côn trùng
*

寂しさや岩にしみ込む蝉の聲
sabishisa ya/ iwa ni shimikomu/ semi no koe
Tịch liêu
thấm xuyên đá
tiếng ve kêu
*

落ざまに水こぼしけり花椿
ochizama ni/ mizu koboshikeri/ hana tsubaki
Đóa trà mi
buông mình rơi xuống
thả ngấn nước đi
*
荒 海 や 佐 渡 に よ こ た ふ 天 河
araumi ya/ sado ni yokotau/ amanogawa
Biển hoang sơ
ngân hà ôm lấy
bờ đảo Sado
Đảo Sado ở Nhật xưa kia là nơi nhiều danh nhân bị lưu đày. Đêm thất tịch Ba Tiêu buồn trông ra đảo tưởng đến Chức Nữ và những ai từng bị xử án bị lưu đày… Chỉ có ngân hà là muốn xuống với họ như cái đẹp cứu vớt…
*

(Nhật Chiêu)

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt