Haiku từ thế Nhật Bản- Japanese Death Haiku

Trong nền thi ca một số nước Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… có một thể loại thơ thường được gọi là từ thế ca hoặc từ thế cú, bài thơ giã biệt cuộc đời (tiếng Nhật: Gokuraku Shujo hoặc Jisei, tiếng Anh: Death poems). Ở Nhật Bản, từ thế ca thường được viết dưới thể tanka hoặc haiku.

Trong từ thế ca, ý tưởng cốt yếu của bài thơ là ở thời khắc kết thúc cuộc đời, người sẽ hoặc sắp khuất bóng sẽ nói lên những suy nghĩ của mình về cái chết, về cuộc đời mình. Bài thơ được coi là một tặng phẩm quý giá cho những người thân yêu, cho đệ tử, cho bạn bè. Truyền thống này bắt nguồn từ các tu sĩ phái Thiền tông, nhưng sau này đã trở nên rất phổ biến trong các nhà thơ nói chung. Trong từ thế ca có thể thấy tràn ngập những biểu tượng của cái chết như hình tượng trăng rằm, tiếng kêu của chim cu, bầu trời phía Tây, hoàng hôn, những hình ảnh của mùa mà người viết sắp khuất núi…

Có thể bài từ thế ca cổ nhất ở Nhật Bản là của Hoàng tử Otsu, thi sĩ và là thái tử của Nhà vua Temmu, tương truyền được viết trước khi phải tự sát vào năm 686 do bị cáo buộc nổi loạn chống lại Vua cha.

Cũng giống như các bài haiku, từ thế ca cố gắng thể hiện giây phút siêu nghiệm (transcendence moment) về cái chết, như một lời cảm thán: “Ồ, giây phút này đây, ta đã được trông thấy cái chết!”. Bài haiku từ thế cố gắng kết nối tâm thế người đọc với người viết nhằm tạo nên một tư thế đĩnh đạc trong giờ phút “tử biệt, sinh ly”. Bài haiku từ thế giúp ta loại bỏ cách tư duy nhị nguyên (dualistic ways of thinking) phân biệt cái đẹp và cái xấu, cuộc sống và cái chết, tương lai và hiện tại… trong suy nghĩ của mình. Một số bài haiku từ thế mang mầu sắc u buồn, nhưng cũng có những bài tràn đầy hy vọng, phụ thuộc vào tâm trạng của haijin trong những ngày cuối cùng của cuộc đời hoặc khi sẽ đón nhận cái chết. Chấp nhận cuộc sống như nó vốn có và ngộ được rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi thường là những ý tưởng cốt yếu được thể hiện trong nhiều phiến khúc haiku từ thế.

Shinsui, mất năm 1796 ở tuổi 49, tương truyền trong thời khắc sắp chết, môn đệ xin ông hãy để lại một bài haiku từ thế. Ông lấy cây bút lông, chấm mực vẽ một vòng tròn, ném cây bút sang một bên rồi lìa trần. Vòng tròn – chỉ dấu của sự rỗng không, bản chất của vạn vật, “bát nhã” – là một trong những biểu tượng của Thiền tông.

 

 

 

Hãy thưởng thức một số bài haiku từ thế dưới đây của các đại sư haiku Nhật Bản được dịch qua bản dịch tiếng Anh của Michael R. Burch.

 

Matsuo Basho (1644 – 1694)

On a journey, ill;
my dream goes wandering
over withered fields.

 

Trên đường lữ hành mắc bệnh

giấc mơ ta còn lởn vởn

trên cánh đồng cỏ khô

 

Saying farewell to others
while being told farewell:
departing autumn

 

Giã biệt mọi người

khi nói lời ly biệt:

cũng giã từ mùa Thu

 

What am I doing,
writing haiku on the threshold of death?
hush, a bird’s song!

 

Tôi đang viết

khúc haiku từ thế

Suỵt, tiếng chim hót ngoài kia!

Kobyashi Issa (1763 – 1827)

This world of dew
is only a world of dew –
and yet*

Thế gian đầy sương

một thế gian mù sương

chỉ có vậy

 

*Bài haiku viết sau khi một đứa con của bà từ trần

 

A bath when you’re born,
a bath when you die,
how stupid.

 

Khi sinh ra được tắm

khi chết cũng được tắm

ngớ ngẩn làm sao

 

Saigyo (1118-1190)

Let me die in spring
beneath the cherry blossoms
while the moon is full

 

Hãy cho ta chết vào mùa Xuân

dưới hoa anh đào bừng nở

và ánh trăng rằm

Taiheiki Toshimoto (- 1332)

There is no death, as there is no life
are not the skies cloudless
and the rivers clear?

 

Không có cái chết, không có sự sống

không có bầu trời không mây

và dòng sông không đục?

Ota Dokan (1432-1486)

Had I not known
I was already dead
I might have mourned my own passing

 

Tôi không biết

tôi đã chết rồi

chỉ biết khóc thương cái chết của mình

 

Toyotomi Hideyoshi (1536-1598)
My life appeared like dew
and disappears like dew
all Naniwa* was a series of dreams

 

Đời ta như hạt sương

rồi cũng tan biến như sương

Lãng Hoa* chỉ là những giấc mơ

 

*Naniwa (Lãng Hoa): Tên cũ của vùng đất nay là vùng Osaka

Tokugen (1558-1647)
My life was mere lunacy
until
the moon shone tonight

 

Đời tôi quá điên rồ

cho đến khi

chị Hằng soi sáng đêm nay

 

Tadatomo (1624-1676)

Brittle autumn leaves
crumble to dust
in the bitter cold wind

 

Những chiếc lá khô

nát tan thành bụi

trong gió thu lạnh buốt

 

Kobayashi Issa (1763-1827)

Autumn wind…

she always wanted to pluck

the reddest roses*

Gió thu…

con tôi luôn muốn ngắt

đóa hoa hồng thắm nhất

*Issa viết bài haiku này sau khi con gái Sato từ trần với ghi chú: “Dưới mồ, Sato, bé gái, ngày thứ 35”

Ochi Etsujin (1656-1739)
I wish to die
under the spring cherry blossoms
and April’s full moon

 

Tôi mong được chết

dưới anh đào mùa Xuân

và trăng rằm tháng Tư

Senseki (1712-1742)

At long last I depart:
above me are rainless skies and a pristine moon
as pure as my heart

 

Cuối cùng tôi cũng chết:

dưới bầu trời trong và trăng tinh khôi

như tâm hồn tôi

Uko (1686-1743)

Cuckoo, lift
me up
to where the clouds drift …

 

Hỡi cánh chim cu

hãy đưa ta đến

chốn mây trôi lững lờ…

Shinsui (1720-1769)

Like dew glistening
on a lotus leaf,
so too I soon must vanish

 

Như giọt sương

trên chiếc lá sen

ta cũng tan biến

Setsudo (1715-1776)
To prepare for my voyage beyond,
let me don
a gown of flowers

 

Cho chuyến lữ hành phía trước

ta đã sắm sẵn

một chiếc áo bằng hoa

Takuchi (1767-1846)
Having been summoned,
I say farewell
to my house beneath the moon

 

Đã được gọi tên

tôi chào tạm biệt

ngôi nhà dưới trăng

 

Tembo (1740-1823)

Let this body
be dew
in a field of wildflowers

 

Hãy để tấm thân này

như hạt sương

trên cánh đồng hoa dại

Tanehiko (1782-1842)
Learn to accept the inevitable:
the fall willow
knows when to abandon its leaves

 

Hãy chấp nhận

như cây liễu chết

biết khi nào rụng lá

Rangai (1770-1845)

I wish only to die
swiftly, with my eyes
fixed on Mount Fuji

 

Tôi muốn chết thật nhanh

đôi mắt bất động

hướng về núi Phú sĩ

Ryokan (1758-1831)
This world:
a distant mountain echo
dying unheard …

 

Thế gian này:

tiếng vọng núi đồi xa xôi

lặng lẽ tắt…

 

Saigyo (1118-1190)
Let me die in spring
beneath the cherry blossoms
while the moon is full

 

Hãy cho tôi chết vào mùa Xuân

dưới hoa anh đào nở

và ánh trăng rằm

Ôuchi Yoshitaka (1507-1551)
Both victor and vanquished are dewdrops
in which flashes of light
illuminate the void

 

Kẻ chiến thắng và chiến bại

là những hạt sương

tỏa sáng chốn hư không

 

Kigen (- 1736)

Seventy-one?
how long
can a dewdrop last?

 

Bảy mươi mốt tuổi

hạt sương

còn đọng lại đến bao giờ?

Kisei (1688-1764)

Since I was born,
I must die,
and so …

 

Từ khi ta chào đời

rồi ta phải chết

và rồi cứ thế…

Senryu (- 1827)

Like a lotus leaf’s evaporating dew,
I, too …
vanish

 

Như giọt sương tan

trên chiếc lá sen

ta, rồi cũng thế…

Kiba (- 1868)

My aging body:
a drop of dew
bulging at the leaf-cliff

 

Tấm thân ta già cỗi

một giọt sương

nổi trên gân lá

Roshu (-1899)

Time to go …
they say this journey is a long trek:
this final change of robes

 

Thời khắc giã biệt

họ bảo cuộc lữ hành dài này

đây là lần cuối cùng thay áo

Ochi Etsujin
Let me die
covered with flowers
and never again wake to this earthly dream!

 

Hãy để tôi chết

ngập trong hoa

đừng đánh thức tôi những giấc mơ trần tục.

Thượng Đình, 16 tháng 7 năm 2023

Lê Văn Truyền

Câu Lạc Bộ Haiku Việt – Hà Nội

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt