Thơ haiku thiếu nhi Nhật Bản & New Zealan: Cảm nhận và biểu hiện từ tâm hồn

alt

Cao Ngọc Thắng

Haikuviet.com, ngày 1 tháng 9 năm 2017, giới thiệu 30 phiến khúc haiku của 15 haijin Nhật Bản và 15 hiajin New Zealand, tất cả đều ở độ tuổi từ 7 đến 15 tuổi.. Ban’ya Natsuishi và Naruhito Luke Takeuchi đã chuyển các bài tiếng Nhật sang tiếng Anh. Đinh Nhật Hạnh chuyển 30 bài từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Đọc những phiến khúc haiku này có cảm giác được trẻ lại tuổi ấu thơ, được bơi trong dòng cảm xúc hồn nhiên mà dâng đầy lãng mạn…

alt

Jiuri Hamamura (7 tuổi) nghe thấy ông mặt trời cười, một tiếng cười sảng khoái bật lên:

Ông mặt trời cười

ihihi, ahaha

haha

(The sun laughing/ ihihi, ahaha/ haha)

Không cần biết vì sao ông mặt trời cười, cười vào lúc nào, chỉ biết rằng có một đứa trẻ 7 tuổi đã nghe thấy tiếng cười đó, cảm nhận được tiếng cười khoái trá đó vọng từ cao xanh.

Hai em bé Nhật Bản khác, cũng có cảm hứng từ mặt trời. Aika Fujimoto, 9 tuổi, ngắm hoa cải thấy ân huệ từ người mẹ thiên nhiên:

Hoa cải dầu

màu vàng chói

mặt trời cho ta

(Rape blossoms/ yellow color/ given by the sun)

Còn Rina Nagumo, cũng 9 tuổi, lại cảm nhận ông mặt trời qua ánh xạ tia nắng trên thân thể người thầy giáo dạy bơi:

Sàn bể bơi

thầy giáo em đứng

phản chiếu ánh trời

(Swimming pool/ in the reflexion of the sky/ our teacher stands)

Ồ, thì ra người thầy giáo đó vừa ở bể bơi bước lên thân thể còn ướt sũng nước.

Một cách trực diện, em Fergus Kil Patrik, 9 tuổi người New Zealand, so sánh:

Mặt ông tôi

khô bởi nắng nôi

như vỏ cây sồi

(My grand father’s face/ dried by the sun/ oak tree winkles)

Thật là hình ảnh sinh động. Vỏ cây sồi khô đanh vì nắng mặt trời như mặt ông tôi giãi dầu phơi nắng. Cái sần sùi ở đây mới đáng yêu làm sao!

Bầu trời này chỉ có một mặt trời thôi, và mẹ em chỉ có một trên đời. Ông mặt trời đem lại cảm hứng cho bao nhiêu người. Đó là sự sống. Là niềm vui. Bởi vậy, ở nơi đô hội, em Oria Mahek, 12 tuổi người New Zealand, buồn bã khi vắng tiếng gà cất tiếng gọi bình minh, thấy thiếu cái gì đó rất trọng đại:

Trong thành phố

còi rú

thay cho tiếng gà gáy

(In the city/ the sound of sirens/ replace roosters)

Cũng tâm trạng như thế, em Rioyuka Simizu, 9 tuổi người Nhật Bản, than rằng:

Dế rung chuông

thức em dậy

buổi chiều hôm

(Bell cricket/ calls me up/ in the evening)

Ở đây, dế rung chuông vừa là tiếng “hót” của con dế thiên nhiên vừa là tiếng báo thức của chiếc điện thoại di động đặt nơi đầu giường. Nghe cái thực mà lòng hướng về vô thức. Thiếu ánh chiều tà làm em giật mình, ngơ ngác.

Và, cả khi ông mặt trời “ngủ đông”, trái tim các em nhỏ vẫn tìm cách lấp đầy sự trống vắng:

Nghỉ đông

trời

đầy sao

(Winter vacation/ the sky/ full of stars)

Em Yuko Miyakawa, 9 tuổi người Nhật Bản, đã biểu cảm như thế. Em ngắm các vì sao chi chít mà lòng không nguôi nhớ ánh nắng mặt trời sưởi ấm cho muôn loài nảy nở.

Trẻ em ngày nay, trong thời đại thông tin bùng nổ, càng sớm hiểu biết những thay đổi trạng thái trong thiên nhiên và biến động của xã hội. Nắng mưa là chuyện của giời. Hết mưa trời hửng nắng lên thôi. Mỗi thay đổi ấy đều đem lại những giá trị nhất định và cả những hậu quả khôn lường, khó tránh. Cảm nhận như em Josie Fraser, 13 tuổi người New Zealand thật là tinh tế:

Mưa lộp độp rơi

từng giọt vang lên như tiếng trống

bài ca của Mẹ thiên nhiên

(Rain pitter-patters/ each drop beats a drum/ mother-nature song)

Tinh tế ở chỗ nghe từng giọt mưa vang lên mà thành tiếng trống, thành bài ca. Lòng hân hoan của em là niềm vui chung của người dân bấy lâu khao khát trận mưa rào cứu thế.

Một sự vi tế khác, muốn cất đi một kỷ niệm (có vẻ) buồn về mùa đông lạnh giá:

Chiếc lá vàng

rơi

vào tim em

(Dried leaf/ blowns/ into my heart)

Nỗi buồn ấy của em Karin Masuda, 9 tuổi người Nhật Bản, đã được bạn đồng hương của mình là Takumi Akashi, 7 tuổi, nhanh chóng khỏa lấp:

Mong mãi cũng đến

thiệp mừng Năm mới

của em đây rồi

(Finally it arrives/ a New-Year card/ for me)

Tuy nhiên, chẳng phải lúc nào con trẻ cũng hồn nhiên, ngây thơ quá đỗi. Các em thấy hết, thấy cả mặt trái do thiên tai hủy hoại đến đau lòng. Các em miêu tả bằng trực giác đầy mẫn cảm. Ở tận đất nước New Zealand xa xôi, nghe tin sóng thần, bão biển giập vùi làng quê, thành phố Nhật Bản, các em chia sẻ sự mất mát, tang thương với các bạn mình bằng những phiến khúc haiku rung động cả người lớn. Ví sóng thần như cây đinh ba của Hải Vương, em Hugo Clement, 10 tuổi viết:

Cây đinh ba của Hải Vương

tung hoành trên biển cả

bầy ngựa của Sóng Thần

(Poseidon’s trident/ slams into the sea/ Tsunami horses)

Em Myfanway Bosley, 7 tuổi, lại ví sóng thần như con rồng quái dị:

Tiếng thét gầm vang

đánh thức làng Nhật Bản dậy

hơi thở của rồng

(A rumbling sound/ wakes a Japanese Village/ dragon breath)

Chắc trong suy nghĩ của em bé này hơi thở của con quái vật chẳng thơm tho gì.

Không giống người lớn, các em đi tìm nguyên nhân sinh ra những thiên tai khủng khiếp đó bằng suy luận của mình. Không hẳn là ngây thơ. Cũng không hề đơn giản. Những suy luận ấy ẩn chứa cái lý của chúng. Em Zoe Nathan, 9 tuổi, viết:

Cát từ dưới biển

đùn lên trên đường

làm tan rã những lâu đài

(Sand from the sea/ emerges through the road/ liquefaction casties).

Cũng từ biển, nhưng là thế giới nghêu sò đồng lõa góp vào trận động đất:

Thế giới nghêu sò

tự phanh tim ra

thành những viên ngọc trai động đất

(The seashell world/ open up its heart/ earthquake peaels)

Không còn ngộ nghĩnh nữa, em Negan Koppen, 10 tuổi, đã nhận thấy: từ chỗ loài nghêu sò làm nên cái đẹp khi tự phanh tim ra chúng hóa thành tội đồ quỷ quái.

Cả con người nữa chứ. Khi ai đó đồng lõa nhúng tay vào tội ác đều mang bộ mặt của Hải Vương. Em Jemes Harper, 10 tuổi, đã nghĩ như thế:

Bộ râu ông già

uốn cong như sóng rong biển

của Hải Vương

(The old man’s beards/ curved in a wave/ Neptune seaweed)

Tư duy của trẻ em thật đa dạng.

Đáp lời sự đồng cảm và sẻ chia của các bạn New Zealand (có thể lắm chứ), em Tomoka Fukuda, 15 tuổi người Nhật Bản, bằng những lời của người trong cuộc:

Em muốn xóa

sự tàn phá của cơn bão

bằng hòn tẩy

(I want to erase/ the vortex of a typhoon/ with an eraser)

Thật dung dị mà cũng lãng mạn làm sao!

Tiếng lòng đồng điệu, em Eleanor Thorpe, 13 tuổi người New Zealand, khảng khái:

Không quản thời tiết

bầy sẻ vẫn bới rác kiếm ăn

để sống sót qua cơn bão

(Despite the weather/ sparrows still scavenge/ surviving the storm)

Một ý nghĩ chín chắn, đầy tính nhân văn, nhân bản.

Một sự đồng điệu khác, một lối suy tư khác, vừa khúc chiết vừa nhi nhiên. Đó là phiến khúc của em Harrier Keith, 13 tuổi cũng người New Zealand:

Một con bồ câu bay lang thang

tách khỏi bầy đàn

tìm một lối riêng

(A pigeon wanders / away from the crowd to find / a path of his own)

Có thể chưa hẳn đúng, nhưng đọc bài haiku này bỗng thấy sự liên tưởng của em bé này khá là thấu đáo. Hòn đảo Nhật Bản nằm trên vòng cung núi lửa lớn trên hành tinh, thường xuyên xảy ra nhiều trận động đất dữ dội. Trong hoàn cảnh đó, người Nhật Bản đã tìm ra cách chống đỡ riêng cho mình rất hiệu quả. Song, sức người chỉ có hạn, khó tránh nổi những cú “vươn mình” đột khởi của thiên nhiên, của đại dương khổng lồ. Sau mỗi trận tàn phá như vậy, họ lại đứng lên, gồng mình khắc phục hậu quả và bước tiếp.

Sự trả thù của thiên nhiên dù ghê gớm đến mấy không khiến con người chùn bước, thì chiến tranh mới là nỗi ghê tởm do chính con người trực tiếp gây nên. Sự ghê tởm ấy đổ xuống đầu không loại trừ ai, trong đó trẻ em là nạn nhân. Các em tự thức nhận được điều đó. Suy nghĩ của em Angela Chen, 13 tuổi người New Zealand, làm người lớn chúng ta chạnh lòng:

Ta ngồi nơi yên ấm

trong khi trên thế giới

nhiều nơi đang chiến tranh

(Sitting in the warmth/ while somewhere in the world/ wars are happening)

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn giới thiệu một cách cảm đi từ thiên nhiên sang loài người của haijin 8 tuổi người New Zealand, em Madison Fortune:

Bầy sẻ hót vang

bằng nhiều thứ tiếng

dàn đồng ca Nam M

(The sparrows sing/ in different languages/ South American choir)

Và, một bài của haijin 11 tuổi người Nhật Bản, em Yui Iwano:

Ngày Hội thể thao

mẹ em chạy

xa hơn tất cả các bạn của em

(Sports day/ my mother ran longer/ than any other children)

Thoáng đọc có thể cho rằng hai bài này mâu thuẫn về bối cảnh và hành động. Một nói về sự quy tụ nhiều người, bài sau nói về một người. Ở bài trên, Fotune có sự liên tưởng về một cộng đồng người nói tiếng latin bao chùm lục địa Nam Mỹ, từ bầy chim sẻ. Dù nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay tiếng Pháp, tiếng bản địa, nhưng cộng đồng ấy đã và luôn luôn là sức mạnh, được hun đúc trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dưới ngọn cờ tụ nghĩa của người Anh hùng Hô-xê Mác-ti. Tương lai đang ở phía trước họ. Ivano miêu tả người mẹ cùng chạy với đàn em nhỏ trong ngày hội thể thao. Cái thực này vừa mang nghĩa đen (người đã già chắc chắn chạy không bằng lũ trẻ, bà tụt lại) vừa có nghĩa bóng (đất nước Nhật Bản đang roi vào tình trạng dân số già). Vậy thì, tương lai của nước Phù Tang tất yếu nằm trong tay người trẻ. Hai hình ảnh thơ đều hướng về tương lai cả thôi.

Những phiến khúc haiku của các haijin nhỏ tuổi từ Nhật Bản và New Zealand đã đem lại cho tôi nhiều cảm xúc bởi sự tinh tế trong quan sát, trong suy tư và trong cách biểu hiện. Trân trọng cám ơn các dịch giả Ban’ya Natsuishi và Naruhito Luke Takeuchi, và Đinh Nhật Hạnh.

Láng Hạ, 22-10-2017

C. N. T.

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt