
Tham luận của đoàn đại biểu Haiku Việt tại Đại hội Haiku Thế giới WHA lần thứ 8
ngày 5/9/2015 tại Tokyo Nhật Bản
I.Hình Thành Và Phát Triển Thơ Haiku ở Việt Nam
Từ thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, sự kiện thơ Haiku Nhật Bản chính thức du nhập vào Việt Nam là cuộc tiếp biến văn học lần thứ III sau thơ Đường và thơ Pháp.
1.Hình thành
Cho đến thập niên 70 của thế kỷ XX, có thể khẳng định ở Việt Nam chưa lưu hành, nghiên cứu thơ Haiku Nhật Bản có hệ thống, khi đó mới chỉ là những thử nghiệm riêng lẻ, sáng tác phỏng theo của vài tác giả tiền phong, những bản dịch Haiku Nhật Bản lúc ấy còn thiếu tư liệu đối chiếu. Kể từ năm 1980, thơ Haiku Nhật Bản bắt đầu được giảng dạy trong chương trình văn học nước ngoài của môn Ngữ văn lớp 10 nâng cao với những tiết giảng một số bài thơ nổi tiếng của Basho đã dịch sang tiếng Việt. Đồng thời, văn hóa Nhật Bản và thơ Haiku được giảng dạy sâu rộng hơn tại các khoa chuyên ngành của một số trường Đại học cả nước. Một số luận văn cao học và luận án tiến sỹ về thi ca Nhật Bản và thơ Haiku được hoàn thành và công bố. Cũng bắt đầu từ đó, nhiều tác phẩm dịch thuật và biên khảo về văn hóa thi ca và thơ Haiku Nhật Bản được ấn hành và phổ cập với tên tuổi các nhà khảo cứu uy tín như Nhật Chiêu, Lưu Đức Trung, Đoàn Lê Giang, Vĩnh Sính… Trên cơ sở sự truyền bá văn hóa Nhật Bản như vậy, tới thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, thơ Haiku Việt đã hình thành và phát triển nhanh chóng, có tổ chức.
2.Phát triển
Để đáp ứng nhu cầu thưởng thức và sáng tác thơ Haiku Việt của khá đông tầng lớp trí thức, nhà thơ và sinh viên, một số tổ chức với nhiều hình thức hoạt động phù hợp đã hình thành:
Từ năm 2007, Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Báo Tuổi Trẻ đã định kỳ hai năm một lần tổ chức cuộc thi thơ Haiku tiếng Việt và Haiku tiếng Nhật cho người Việt và người nước ngoài ở Việt Nam tham dự. Các cuộc thi này rất hào hứng, có tác dụng lớn trong việc phổ biến và sáng tác thơ Haiku ở Việt Nam. Đồng thời hàng năm tại thành phố Hội An – cảng biển thành lập từ thế kỷ 17 nay là di sản văn hóa thế giới- có sự kiện Văn Hóa Hữu Nghị Hội An- Nhật Bản mở cuộc thi thơ Haiku Việt từ 2012.
Hai năm gần đây, CLB đã tham gia Ban Giám khảo cuộc thi thơ Haiku Việt cho học sinh THCS Hà Nội do Đại sứ quán Nhật Bản ở Việt Nam, Japan Airlines và Japan Foundation đồng tổ chức.
Để tập trung lực lượng sáng tác, hai câu lạc bộ Haiku Việt đã hình thành tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
–24/06/2007: Thành lập câu lạc bộ Haiku ở Tp Hồ Chí Minh do PGS. Lưu Đức Trung làm chủ nhiệm. CLB này là một chi hội của Hội Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản Tp. Hồ Chí Minh.
-21/05/2009: Thành lập câu lạc bộ Haiku ở Hà Nội do bác sỹ Đinh Nhật Hạnh và dịch giả Lê Thị Bình đề xuất. Đến nay, CLB đã có trên 50 thành viên (ở Hà Nội và 4 thành phố trong nước), đồng thời là chi hội của Hội Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản Trung ương và Hà Nội.
Mùa xuân 2012, nhân liên hoan thơ Châu Á Thái Bình Dương lần thứ nhất tổ chức tại Việt Nam, CLB Haiku Hà Nội gia nhập Hiệp Hội Haiku Thế Giới (WHA). Chủ tịch WHA Natsuishi Ban’ya đã kết nạp 20 thành viên của CLB vào tổ chức này, mở đầu kỷ nguyên mới hội nhập vào nền Haiku thế giới.
Các CLB Haiku Việt nói trên sinh hoạt định kỳ hai tháng một lần với nội dung phong phú: trao đổi học thuật và những sáng tác mới về thơ Haiku, giới thiệu những bài khảo cứu về văn hóa thi ca của Haiku Nhật Bản và thế giới.
Tham gia tích cực các Ngày thơ Việt Nam truyền thống hàng năm ở Văn Miếu Quốc Tử Giám của Hội Nhà văn Việt Nam. Quán thơ Haiku nhận được nhiều giải thưởng từ 2011.
Hoạt động ấn hành: hai CLB đều phát hành nội san hàng năm, mỗi kỳ hàng mấy trăm bản với nội dung phong phú về khảo cứu, sáng tác, dịch thuật, trao đổi. Nhiều cá nhân hoặc nhóm haijin đã xuất bản thơ Haiku (khoảng 30 tác phẩm). Đã ra 3 tuyển tập Haiku Việt.
Công tác dịch thuật thơ Haiku Nhật Bản cũng rất được chú trọng. Nhiều sáng tác Haiku cổ điển và đương đại được dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản tiếng Nhật, nhưng chủ yếu của các tác giả Anh, Pháp, Mỹ để phổ biến thơ của Basho, Buson, Issa, Shiki… Tuy nhiên công tác dịch thuật này cần được quan tâm nhiều hơn nữa để quảng bá rộng rãi và chuẩn xác thơ Haiku Nhật Bản với độc giả trong nước.
Đã hình thành bộ phận Thư pháp Haiku Việt, hoạt động có kết quả tốt.
Đặc biệt quan trọng là sự kiện Tọa đàm Haiku Việt Nam – Nhật Bản lần thứ nhất (13-14/09/2014) tại Hà Nội thành công tốt đẹp với sự hiện diện và đồng chủ tọa của Chủ tịch Natsuishi Ban’ya và các thành viên WHA là một dấu son lịch sử đã động viên, cổ vũ phong trào sáng tác thơ Haiku, cũng như công nhận sự trưởng thành của nền Haiku Việt. Sự kiện này đã tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa hai nền văn hóa, thu hút sự quan tâm, ủng hộ của các tổ chức hữu quan, các nhà văn hóa, các nhà thơ trong nước và đông đảo người yêu thơ. Hội Nhà văn Việt Nam cũng bắt đầu quan tâm đến việc phổ biến và đăng tải thơ Haiku trên tạp chí thơ của Hội.
Trong nước, sự quan tâm đặc biệt và ủng hộ nhiệt tình của Hội Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho các hoạt động của CLB Haiku Hà Nội có định hướng đúng đắn và kết quả mong muốn.
Tóm lại, phong trào sáng tác thơ Haiku ở Việt Nam mới hình thành từ một thập kỷ nay nhờ các yếu tố trên đã phát triển khá nhanh, đạt những thành quả ban đầu đáng khích lệ. Bên cạnh sáng tác, đã tổ chức một nhóm khảo cứu chuyên sâu về tính đặc thù của Haiku nói chung và Haiku Việt nói riêng. Đặc biệt tầng lớp thanh thiếu niên, sinh viên ngày càng quan tâm và bắt đầu sáng tác thể thơ hàm súc này đang có nhu cầu cao về tư liệu nghiên cứu đáng tin cậy về thơ Haiku.
II.Những Đặc Điểm Của Haiku Việt
Các haijin Việt thường là những nhà thơ đã ít nhiều sáng tác thành công thơ trữ tình, thấm nhuần từ lời ru của mẹ nguồn tục ngữ ca dao vô cùng phong phú mà bất cứ người Việt nào cũng thuộc lòng ít nhiều. Thơ Haiku Việt tiếp thụ và áp dụng cấu trúc ngắn của Tục ngữ – Ca dao Việt Nam hoặc không vần, hoặc có vần tạo nhạc tính đặc trưng dân tộc.
Về nội hàm, tâm hồn Việt được thể hiện trong tinh thần Thơ Lục Bát (6/8) – một thể thơ đặc hiệu của Việt Nam, có thể diễn đạt mọi trạng thái của tâm hồn, mọi biểu cảm của tư duy thơ Haiku Việt. Tiếp thu những tinh hoa của nền Haiku Nhật Bản truyền thống, thơ Haiku Việt như một gốc cây có ba rễ hội tụ những cảm thức đặc trưng:
aware (bi cảm)
wabi (giản đạm)
sabi (tịch tĩnh)
Còn 4 cảm thức khác không kém phần quan trọng là:
hosomi (tinh tế)
fuga (phong nhã)
yugen (u huyền)
shiori (dư vị)
Với những gốc rễ ấy, vốn là tinh hoa của Haiku Nhật Bản, cấy vào nền đất Việt của Tục ngữ – Ca dao đã phát triển cây Haiku Việt tỏa bốn cành xum xuê hoa thơm trái ngọt. Đó là:
Vần điệu (onchou, akusento) thể hiện tính nhạc đặc trưng của ngôn ngữ Việt Nam.
Trữ tình (jojou)
Thiên nhiên (tennen)
Thế sự (yononaka no kotogura)
Về cấu trúc, thơ Haiku Việt có những đặc điểm sau:
Không nhất thiết phải có quý ngữ (kigo) Nếu có, thường gián tiếp.
Không có đầu đề. Một câu chia thành 3 dòng.
Không áp dụng cấu trúc 5-7-5 âm tiết như Haiku Nhật Bản vì tiếng Việt đơn âm – mỗi âm tiết là một từ, khác hẳn với tiếng Nhật đa âm – một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu máy móc sáng tác theo 5-7-5 thì câu thơ sẽ rất dài, triệt tiêu mất đặc thù cực ngắn, cô đọng của Haiku truyền thống Nhật. Thơ Haiku Việt linh động trong số lượng từ, một bài thường dài không quá 14 từ, ngắn không dưới 5 từ.
Việc sáng tác Haiku rất linh động tùy tác giả. Hoặc có vần:
Mưa mưa / cưa đôi / nỗi nhớ (Đỗ Tuyết Loan)
Hoặc không vần:
Đàn / đứt / một tiếng buồn (Lưu Đức Trung)
Vì tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm mà đa thanh, do đó dù có vần hay không vần, một bài thơ Haiku Việt vẫn nhịp nhàng, uyển chuyển nhờ cách sắp đặt các từ theo âm TRẮC (ngã, sắc, nặng, hỏi) và âm BẰNG (không có dấu hoặc có dấu huyền) của từ đó. Do đặc trưng của ngôn ngữ Việt, so sánh với tiết tấu của mặt bằng chung, Haiku Việt có tính nhạc đặc trưng, độc đáo hiếm thấy trên thi đàn Haiku thế giới.
Về nội dung, ngoài những cảm xúc về thiên nhiên bốn mùa và những rung động riêng tư lắng đọng, cũng như Haiku hiện đại của Nhật Bản và thế giới, Haiku Việt mang tính cập nhật khá cao trước những biến động nhanh chóng của xã hội hiện đại trong kỷ nguyên kỹ thuật số, những thay đổi chóng mặt của hành tinh chúng ta về mọi mặt.
Có thể nói hiện tại “Haiku Việt là dòng Haiku mở” – vẫn giữ khung cửa vững chắc của Haiku Nhật truyền thống do Basho khởi xướng, nhưng mở rộng hai cánh về những chân trời của một thế giới mới khác xưa mà gần đây những sáng tác của Natsuishi Ban’ya đã thể hiện thành công. Haijin Việt Nam rất tự do trong sáng tác, khi thuần túy Haiku cổ điển, khi tung tẩy cấu tứ tự do tùy hứng.
III.Kết Luận
1.Kết luận
Ở Việt Nam, thơ Haiku bắt nguồn từ những tinh hoa của Haiku truyền thống Nhật Bản, phát triển trên nền Tục ngữ – Ca dao (về cấu trúc và vần điệu) và Tâm hồn dân tộc của thể Lục Bát lưu truyền tự ngàn xưa.
Haiku Việt đang đi những bước đầu tiên. Với một thể thơ lưu hành, trường tồn và đang phát triển rộng khắp thế giới xuyên qua bao thế kỷ, những cảm nhận về Haiku Việt trên đây chỉ là sơ bộ, như vài bước chân ban đầu trên con đường mòn giữa mênh mông sâu thẳm Haiku.
Tuy mới chính thức có tổ chức và gia nhập WHA nhưng Haiku Việt đã sớm được sự hưởng ứng, ủng hộ của những người yêu thơ và các tổ chức hữu quan – đã góp phần nhỏ làm phong phú thêm nền thơ Việt Nam đương đại, đồng thời tích cực góp phần củng cố tình hữu nghị ngày càng phát triển giữa hai dân tộc Việt Nam-Nhật Bản và tích cực quảng bá thơ Haiku ngày càng rộng rãi.
2.Đề nghị
Tăng cường các hoạt động giao lưu giữa WHA và Haiku Việt, tạo cầu nối với các tổ chức Haiku Nhật Bản ở chính quốc nhằm nâng cao việc phổ cập thơ Haiku trong nước và thế giới ở tầm mức cao hơn.
Liên kết hình thành một tổ chức dịch thuật Haiku Nhật Bản truyền thống và Haiku các nước trên thế giới để bảo đảm chất lượng tốt hơn, độ tin cậy cao hơn giữa WHA và Haiku Việt.
Mở cuộc thi Haiku thế giới trong các nước hội viên WHA 2 năm 1 lần.
Làm thẻ hội viên WHA.
ĐNH