Haiku- Hồn Việt trên con đường tìm tòi và khẳng định

alt

alt

1. Những năm gần đây, người yêu thơ Việt Nam đang chứng kiến cuộc tiếp nhận thơ thứ ba trong tiến trình liên tục tiếp xúc các nền văn hóa thế giới. Đó là sự tiếp nhận dòng thơ haikư Nhật Bản. Lần thứ nhất đã diễn ra ở các nước dùng chữ tượng hình trong suốt nhiều thế kỷ các dòng thơ từ Trung Hoa, mà thơ Đường luật là tiêu biểu và nổi trội. Lần thứ hai, các dòng thơ châu Âu, đứng đầu là các thể thơ Pháp, đã dấy lên phong trào Thơ Mới vào đầu thế kỷ XX. Cả ba cuộc tiếp nhận thơ ở Việt Nam có bối cảnh và điều kiện riêng, nhưng đều có chung đặc điểm phổ quát mang tính thế giới hoặc khu vực. Lần này, phạm vi ảnh hưởng của thơ haikư có quy mô lớn hơn, đến nhiều nước thuộc các châu lục khác nhau.

2. Cũng như các dân tộc khác, thơ Đường luật hay thơ Pháp được người Việt Nam tiếp nhận đều phải trải qua những chặng đường với những thăng trầm, vừa học hỏi vừa cải biến. Quá trình tiếp biến (tiếp nhận và cải biến) này không ngoài mục tiêu vẫn đảm bảo những tiêu chí, về hình thức thể loại, của các thể thơ gốc, điển hình là các thể thơ Đường luật, nhưng dần dần càng tô đậm tinh thần và hồn cốt Việt. Điều đó là tất yếu. Dù đó là thơ của dân tộc nào, khi nhập tịch vào Việt Nam thì sớm muộn, đã và luôn luôn được tư duy và thể hiện bằng ngôn ngữ tiếng Việt, đậm đà tâm hồn Việt. Và, đương nhiên, chỉ khi nào tính thơ ngoại nhập nhuần nhị hồn Việt, lúc đó cuộc tiếp nhận thơ từ ngoài vào mới coi là thành công.

3. Thơ haikư truyền thống Nhật Bản có tiến trình hình thành, phát triển và định hình từ lâu. Cũng từ lâu, người Việt Nam đã biết, đã thực hành, nhưng ở tâm thế đơn lẻ, cá nhân, chưa trở thành trào lưu rộng rãi, vì thế chưa thu hút sự quan tâm của người làm thơ chứ chưa nói đến quần chúng yêu thơ. Điều kiện nay đã khác. Thơ haikư truyền thống được ngay chính các nhà thơ Nhật Bản đổi mới, khoảng một thế kỷ trước đây, và sự đổi mới này đã cho phép thơ haikư lan tỏa ra khỏi biên giới đất nước Phù Tang, truyền bá ngày thêm rộng tới nhiều dân tộc và hội tụ thành Hội Thơ haikư thế giới với nhiều tổ chức thành viên. Rất nhạy cảm, người Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập vào cuộc tiếp nhận thơ haikư có tính đa quốc gia này. Việc xuất hiện các Câu lạc bộ Thơ haikư ở hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cùng một số nhóm ở các tỉnh thành, trong khoảng chục năm nay, đã nói lên thực tế đó.

4. Câu hỏi đặt ra là: vì sao có sự tiếp nhận thơ haikư Nhật Bản ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay? Có thể thấy mấy lý do sau đây.

Thứ nhất. Thể thơ haikư truyền thống của người Nhật có kết cấu ngắn, gọn, hàm súc trong cấu trúc 5-7-5, rất gần gụi với tư duy thơ và cách đọc-nhớ thơ của người Việt, trước đây cũng như hiện nay, đặc biệt gần gũi với ca dao, tục ngữ, thể lục bát và cả thể tứ tuyệt đã được Việt hóa.

Thứ hai. Nhu cầu và yêu cầu phổ biến thơ ra quốc tế trong xu thế hội nhập đã và đang đòi hỏi Thơ Việt phải nhanh chóng đổi mới toàn diện, nhằm phản ánh sâu sắc mọi phương diện về phát triển nghệ thuật thi ca của dân tộc. Cái hay, cái đẹp đã phát lộ và còn nhiều tàng ẩn trong nền Thơ Việt, ở tất cả các thể loại, ở tất cả các thời kỳ và giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng, cái hay, cái đẹp đó được truyền bá ra thế giới chưa thấm tháp gì so với bề dày vốn có của Thơ Việt. Những tinh túy mang tính đặc sắc, độc đáo, đậm hồn Việt nhất, hầu như tụ hội ở hai thể thơ lục bát và song thất lục bát. Tuy nhiên, đây là hai thể thơ rất khó phổ biến ra thế giới bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Việt. Nó khó ở chỗ, khi chuyển ngữ, hình thức của thể loại rất dễ bị biến dạng, không như việc chuyển ngữ thơ nước ngoài sang tiếng Việt. (Cần nhấn mạnh, ở đây chỉ nói đến khía cạnh giữ nguyên thể thơ trong chuyển ngữ). Việc tiếp biến thể thơ haikư, cùng với thể thơ hai dòng, thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi, có khả năng khắc phục được khó khăn này.

Thứ ba. Như trên đã nói, thơ haikư truyền thống từ lâu đã được chính người Nhật đổi mới cả về hình thức (cấu trúc không còn lệ thuộc 5-7-5, số chữ một bài có xu hướng ít hơn 17) và nội dung (không còn bó hẹp miêu tả bốn mùa của thiên nhiên, hướng nội tâm về thiền nữa, nên không bắt buộc phải có quỹ ngữ). Hay nói cách khác, thơ haikư hiện đại có cơ hội biểu tả nhiều vấn đề, nhiều sắc thái mà mỗi người làm thơ quan tâm, phù hợp với tình hình chuyển động nhanh chóng của cuộc sống đương đại.

Những lý do tạm nêu trên đây được nhận thức và thúc đẩy xu hướng tiếp biến thơ haikư ở Việt Nam trong khoảng chục năm nay.

5. Câu hỏi tiếp theo là: sự tiếp biến thơ haikư ở Việt Nam thời gian qua diễn ra như thế nào?, sẽ hướng tới mục tiêu nào?

Có thể thấy ngay một thực tế: ở Việt Nam, người làm thơ vừa tìm tòi vừa khẳng định, vừa sáng tác vừa nghiên cứu thơ haikư. Sự song hành này góp phần đẩy nhanh tiến trình tiếp biến ngay trong những người quan tâm và yêu thích thể thơ haikư.

a) Ngay ở giai đoạn “đọc”, người ta đã quan tâm đến hình thức của thể haikư, mà đầu tiên là ở hình thức “ba dòng”, ở số chữ của mỗi dòng. Những người phân biệt “âm tiết” và “chữ” thì không quan tâm nhiều lắm đến số “chữ” hoặc “âm tiết”, bởi ngôn ngữ đa âm và ngôn ngữ đơn âm, số “âm tiết” hoặc số “chữ” trở nên không quan trọng, nó không thể đồng nhất.

b) Cũng ở giai đoạn “đọc”, mọi người đều quan tâm tìm hiểu thông điệp cơ bản trong một bài thơ haikư truyền thống thông qua các nhà thơ cổ điển, đồng thời tìm hiểu cách thức cách tân thể thơ này ở các nhà thơ Nhật Bản cận đại và hiện đại, sau đó là ở các nhà thơ hiện đại ngoài Nhật Bản.

c) Người ta nhận thấy, về âm luật, vần điệu, nếu không đọc, không nghe trực tiếp một bài thơ haikư bằng ngôn ngữ bản địa (tiếng Nhật), mà thông qua chuyển ngữ, thì khó cảm nhận cái hay, cái đẹp, cái sâu xa ẩn chứa chỉ trong phạm vi ba dòng/ ba câu và số chữ không quá 17. Song, vấn đề được lý giải đơn giản hơn, sự cảm nhận cái hay, cái đẹp của một bài thơ haikư cụ thể, đối với người Việt, là bằng cảm xúc, bằng sự phân tích những vỉa tầng của ngôn ngữ, của ý niệm thời gian-không gian, của sự liên tưởng về không gian ba chiều, bằng tâm thức thơ ca truyền thống. Cái gọi là “quý ngữ” trong thơ haikư Nhật Bản dường như không xa lạ đối với người Việt, mặc dù “bốn mùa” trong tâm thức người ở xứ nhiệt đới không trùng khớp như trong tâm thức người ở xứ ôn đới, vì người Việt đã qua giai đoạn tiếp biến với thơ Đường luật.

d) Kết luận, yếu tố “ba dòng” mới là quyết định cho thể thơ này. Người làm thơ haikư trước hết phải tuân thủ “luật ba dòng” hoặc ba câu, nếu không sẽ không có được một bài thơ haikư đích thực. Đây là một giàng buộc của thể thơ haikư, dù nó được thể hiện dưới vỏ ngôn ngữ nào. Đó cũng là “ngưỡng” của sự biến cải thể thơ haikư.

Nhận thức điều đó, đối với người Việt, quan trọng hơn cả là mỗi bài thơ haikư khi được sáng tạo không thể không mang âm hưởng của thơ Việt, không thể không có hồn Việt, qua đó ngân vang lên tính cách Việt, toát lên tâm trạng, suy tư, tâm thế, cốt cách của người Việt. Trong xu thế chung, ý tưởng và con đường đi đến mục tiêu đó, có thể còn mày mò, còn chưa định hình, nhưng công việc sáng tác thơ haikư vẫn luôn chuyển động và tiếp cận để mỗi bài thơ haikư đều thể hiện được tinh thần và cốt cách Việt. Trong quá trình Việt hóa thơ Đường luật hay các thể thơ Pháp, người Việt đã thành công, đã đạt đến trình độ uyên thâm, thì trong thể thơ haikư chắc chắn người Việt sẽ làm được như thế. Nền tảng của niềm hy vọng này đã có. Đã có từ việc vận dụng các loại hình dân gian (ca dao, tục ngữ, phong dao, đồng dao, các làn điệu dân ca), đặc biệt ở việc vận dụng cách lập tứ, triển khai ý, sử dụng âm vận, luật bằng-trắc của  thể thơ lục bát và song thất lục bát, từ đó tạo nên nhịp điệu, tiết tấu trầm bống, phóng khoáng, diễn tả tâm hồn, suy tư, cách nhìn nhận thấu đáo ngoại cảnh mênh mông và cuộc sống muôn hình vạn trạng, có sự tác động qua lại hữu cơ của sự sinh tồn cũng như sự phát triển của cuộc sống trong thơ haikư Việt. Đi sâu vào những khía cạnh này sẽ được trình bày ở những chuyên luận khác một cách rành mạch hơn.

Trong việc nghiên cứu, phê bình lý luận, dịch thuật và phổ biến, Nội san Haikư của CLB thơ Haikư Hà Nội, đã ra mắt 5 số trong vòng 4 năm qua, cũng chứng minh sự tiếp biến đang diễn ra một cách vừa âm thầm vừa khẩn trương. Từng bước, các số Nội san trình bày một số lượng sáng tác không nhỏ của 40 hội viên; đồng thời cũng lần lượt giới thiệu các nghiên cứu sâu sắc về thơ haikư truyền thống và hiện đại của Nhật Bản, sự tiếp biến thơ haikư ở các nước khác nhau, việc chuyển ngữ thơ haikư từ tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Anh sang tiếng Việt, bình những bài thơ tiêu biểu; và, nhiều bài biểu thị cách hiểu, cách tiếp cận, cách diễn đạt thể thơ haikư bằng tiếng Việt.

*

Việc nghiên cứu, sáng tác thơ haikư bằng ngôn ngữ Việt, dù là bước đầu, chập chững, đã thể hiện sự tập trung cho mục đích: tìm tòi và khẳng định hồn Việt, tính cách Việt trong thể thơ haikư. Đó là một yêu cầu đối với người làm thơ cũng là nhu cầu của mỗi người làm thơ haikư ở Việt Nam. Đó cũng là cánh cửa mở rộng cho từng người sáng tác thỏa sức tung hoành trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Vấn đề còn lại là tác phẩm thơ có hay không, có neo vào thời gian và lòng công chúng yêu thơ hay không!

Cao Ngọc Thắng

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt