
Một lần nọ, khi chúng tăng đang háo hức chờ đợi Phật Thích Ca thuyết pháp thì Phật chỉ giơ lên một bông hoa không nói gì. Tất cả đều không hiểu, riêng có Ca Diếp mỉm cười. Ca Diếp sau đó trở thành vị Tổ đầu tiên của Thiền tông Ấn Độ.
Tổ thứ 28 và cũng là cuối cùng: Bồ Đề Đạt Ma (thế kỷ 5, 6) – vượt biển sang Trung Quốc để truyền tâm ấn Phật, trở thành vị Sơ Tổ của Thiền tông Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Đạt Ma ngồi quay mặt vào vách tường liên tục đến năm thứ ba thì ngủ lịm lúc nào không hay. Tỉnh dậy, Tổ bực mình cắt luôn mí mắt vứt xuống đất, thế nào mà chỗ ấy mọc lên một cây lạ (chính là cây chè). Tổ đem lá cây nấu lên uống thì tỉnh ngủ hẳn và tiếp tục ngồi bích quán cho hết chín năm. Chân dung Đạt Ma là đề tài thường xuất hiện trong tranh của các vị Thiền sư, biểu đạt sự hiểu Đạo của mỗi vị. Dưới đây là bức “Đạt Ma áo đỏ” của Thiền sư tài hoa Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 1686–1768). Xuyên suốt tác phẩm là cái nhìn nhất nguyên của sư. Đạt Ma nhìn vách tường. Vách tường nhìn Đạt Ma. Hay đúng hơn, vượt lên trên vách tường của kiến giải nhị nguyên, Đạt Ma đang nhìn chính cái tâm huyền diệu của mình. Hakuin cũng đã thấy cái tâm ấy. Là tâm kiến tâm, là tâm hát về tâm thế này:
Lấy xuống đây nào
đứa bé nức nở
đòi vầng trăng cao
Issa – Nhật Chiêu dịch
Đứa bé ấy mới ngây ngô làm sao. Nó muốn có được vầng trăng cho riêng mình, dù một chốc thôi cũng được rồi lại thả lên mà! Tâm ấy vừa bản nguyên lại vừa ly tán. Nhưng sao lấy trăng xuống được đây? Nhưng trăng có thực sự xa cách đến vậy?
Trăng treo lên cành thông
rồi tôi lấy trăng xuống
mà ngắm trăng tuyệt trần
Hokushi – Nhật Chiêu dịch
Trong tranh, nếp trán của Đạt Ma biểu hiện cho trí tuệ sâu thẳm mà giản đơn của Ngài. Mắt, mũi, miệng, tai và vạt áo, tất thảy đều tương thông với điểm ấy. Hai con ngươi ở trên đỉnh của tròng mắt mở to tưởng sắp rơi xuống đến nơi, nhưng cái định ở thế chênh vênh mới thực là đại định. Chiếc mũi thẳng, phình to với lỗ mũi tròn đậm nét, thêm phần râu cằm chĩa ra các hướng làm ta cảm nhận được hơi thở của Đạt Ma truyền ra ngoài, là sự chuyển hóa từ tĩnh sang động. Cái động của hơi thở quyện với cái tĩnh của ánh mắt (hay ngược lại). Miệng tuy mím chặt nhưng nhờ phần râu cằm, ta có thể hiểu Đạt Ma đang thuyết pháp trong im lặng.
Qua nét vẽ tương đồng giữa vành tai với hai mí mắt, Đạt Ma hẳn cũng đang lắng nghe tâm mình. Âm thanh ấy là âm thanh của hư không, như trong một công án Thiền do chính Hakuin sáng tạo: tiếng vỗ của một bàn tay – được gợi lại qua chuyển động của vạt áo đậm phất lên, kết nối với phông nền đen của bức họa. Đến đây, ta sẽ tự hỏi liệu vầng trăng trong đêm thiền định của Đạt Ma và vầng trăng giác ngộ trong tâm hồn Ngài có là một? Đường cong của vạt áo ứng hợp với nếp trán, như là trăng với thuyền – một bóng ảnh của trăng? Bức họa là sự hợp nhất giữa tĩnh và động, giữa sắc và không. Sự chuyển biến tế vi giữa tĩnh và động là cái u huyền. Cùng diễn tả cái u huyền siêu việt ấy, Basho viết:
Con sâu lặng yên
ăn mòn hạt dẻ
trong đêm trăng huyền
Basho – Nhật Chiêu dịch
Trong bóng tối của đêm, trong ánh sáng của trăng, con sâu trở nên bất động còn hạt dẻ lại đang chuyển mình. Hình như còn có một con sâu nữa, con sâu của thời gian, con sâu của hư không đang ăn mòn vầng trăng, mà vầng trăng vẫn cứ nguyên vẹn ở đó.
Với đề tài “Đạt Ma áo đỏ”, Hakuin thực chất còn đề cập đến cái Dục. Đạt Ma tọa Thiền chín năm là vậy, nhưng Ngài vẫn khoác trên mình chiếc tăng bào màu đỏ – màu của Tính Dục. Khi con mắt của người xem bừng ngộ ở một chiều kích khác thì cũng là lúc anh ta nhận ra trên khuôn mặt của Đạt Ma khả kính hiện lên hình ảnh đôi gò bồng đào, hiện lên hình ảnh dương vật theo cách tự nhiên như nhiên của chúng. Cái Thiêng và cái Phàm gặp nhau, chưa khi nào gần đến thế, hội tụ về một điểm, cũng như được thể hiện ở bài Haiku hiện đại sau đây:
Chiếc mô-tô lao đi
cặp đùi tôi ép chặt
ánh trăng rằm mùa xuân
Masaki Yuko – Đinh Nhật Hạnh dịch
Khuôn mặt của Đạt Ma, khuôn mặt của mỗi chúng ta, tự bản chất là khuôn mặt của vũ trụ này.
Đ. T. P