
TỄU
Hội làng rối nước
ô hay chú Tễu
nghìn năm không già
(Vũ Tam Huề)
Không phải ngẫu nhiên mà haijin Vũ Tam Huề đưa rối nước vào thơ Haiku. Có thể tác giả là người đầu tiên chăng? Người nông dân vùng lúa nước suốt ngày bì bõm trên đồng sâu, ruộng cạn chẳng khác nào cái xã hội khốn khó mà họ đang lặn lội kiếm sống. Thế là chợt nghĩ ra cách thư giãn, tức môn nghệ thuật này! Rối nước…
Thơ Haiku rất kiệm lời. Dùng thủ pháp giấu chữ là thâm ý của người viết. Tác giả mượn cái hội làng để chỉ xã hội – sân khấu lớn của cuộc đời! Đọc câu “Hội làng rối nước”, liền xuất hiện trong ta sân khấu của ao làng. Sân khấu là nơi tiếng cười và tiếng khóc xen lẫn. Chất bi hài được đẩy lên cao trào khi tiếng trống giục, tiếng nhị, tiếng bầu, tiếng mõ đan xen vọng lên từ ký ức. Đó là tiết tấu, là nhịp điệu thăng trầm của cuộc sống… Thơ Haiku chỉ giới thiệu sân khấu ấy, rồi để cho nhân vật chính diễn trò. Chú Tễu nghe đã buồn cười, huống chi được thấy. Tễu nghĩa là cười. Vậy thôi. Tiếng cười đã làm nên kiệt tác: Rối nước! Đó là sáng tạo độc đáo của người Việt ở Đồng bằng Bắc bộ.
Nhà thơ dùng tán thán từ ô hay, để diễn tả trạng thái vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Ngạc nhiên, vì chú Tễu đóng khố, được sơn phết, và miệng cười toe toét, bao giờ cũng là lần đầu đem lại không khí mới cho đêm hội. Mừng, vì chú Tễu, kẻ đại diện cho quần chúng nhân dân, nói tiếng nói sâu thẳm tận đáy lòng họ. Bao nhiêu khúc mắc, oan ức, liền mượn miệng Tễu mà thổ lộ. Lòng Tễu và lòng ta không khác. Chú Tễu, kẻ bị giật dây hề trên sân khấu, khác chi sân khấu cuộc đời! Các nghệ nhân đang thể hiện tài “múa rối”, như quyền năng của Tạo hóa. Ở đây, trong môn nghệ thuật này, Tạo hóa lại là lòng dân đấy!
Và chú Tễu ấy nghìn năm không già! Vì sao? Từ chú là thông điệp muôn đời cho ta biết, nó chỉ là một đứa trẻ, ngô nghê, lém lỉnh, muốn nói gì thì nói. Miệng trẻ mà. Không ai chấp nhặt. Thế đấy. Bởi chú biết đem tiếng cười dân gian pha lẫn chất đạo lý mà răn đời. Tác dụng nghệ thuật đem lại là không nhỏ. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu từng viết: “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Nhờ ý thơ mạnh mẽ, kẻ ác không dám quấy nhiễu. Nhân dân yên ổn làm ăn.
Đó là đạo lý mà thơ gởi gắm. Nhà thơ Vũ Tam Huề bắt được cái khoảnh khắc ấy. Một bài haiku ra đời như một chú Tễu hạnh phúc. Ta cũng hạnh phúc theo chú Tễu. Cười chơi…
*
MẦM
Xuân mới
đang lên
từ hạt cũ
(Lê Đình Công)
Xuân của Lê Đình Công không hẳn là quý ngữ. Tuyệt nhiên, nó chỉ là từ chỉ cái đang nhú lên giữa thời tiết ấy mà thôi. Sự vận động trong thơ Haiku chợt mang ý nghĩa mới khi ta ngắt dòng. Không cần biết cái gì đang lên, tứ thơ cứ phơi phới như luồng gió, mà chỉ có hai từ thôi! Đó là một điều thú vị khi tác giả lập tứ cho ý bung lên. Khá giỏi, nếu không phải là tay thơ có nội lực, chưa chắc đã dám hạ bút dòng này!
Nhưng, điều bàng hoàng hơn cả là cái kết đầy hàm ngôn. Một hạt cũ đang nẩy mầm trên cái nền mùa xuân mới. Chất liệu thơ đang hiện lên ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Thơ Haiku như chiếc kính chiếu yêu, có thể soi cho chúng ta thấy cái mầm non của cuộc sống đang bắt đầu. Hạt cũ mang tính di truyền, gợi chúng ta không quên nguồn cội. Cái gì mới cũng bắt đầu từ cái cũ xa xăm. Mặc dù có đôi lúc, đôi nơi, con người sống vội, quên đi tình xưa nghĩa cũ, quên đi gốc gác của mình…
Có phải chăng thơ là đạo lý? Một cái mầm thôi mà chở cả đạo lý muôn đời. Ấy là thơ của loài người, không còn là thơ của một quốc gia nữa. Thơ Haiku không những “tránh sang một bên”, mà còn cùng độc giả sáng tạo, thưởng lãm là vậy. Độc đáo và kỳ diệu vô song!
Đọc xong bài thơ nhỏ, có một câu hỏi được đặt ra. Chúng ta đang gieo hạt gì trong đời sống này? “Gieo gì gặt nấy”, cha ông ta đã nói vậy. Thơ cũng đang nói vậy. “Gieo gió gặt bão”, bài thơ bảo chúng ta hãy gieo những hạt tốt lành, nhân ái. Đừng bao giờ quên, và nhất là đừng coi thường những hạt cũ! Hạt cũ sẽ nẩy mầm trong tương lai. Hạt nhân quả. Mầm nhân quả… Nghe. Sợ…
*
NGỠ
Cành đào soi bóng xuân
ngỡ mồi
con cá đớp
(Đỗ Tuyết Loan)
Nếu Lão thi Đinh Nhật Hạnh viết về cái bóng hoa đào trên không: “một bóng hoa đào/ thắp bừng ngõ nhỏ”, thì haijin Đỗ Tuyết Loan viết về cái bóng hoa đào dưới nước. Trên không cũng khó mà dưới nước cũng khó.
Vâng, nếu không khó không thành vấn đề. Vấn đề đặt ra chủ đề. Nhưng thơ Haiku là bất chợt. Vì vậy mà không có đề. Ba câu là ba ý tưởng khác nhau. Con cá ngỡ hay ta ngỡ? Cả hai chăng?
Cả hai.
Ngỡ tức Tưởng, là một tri giác ghê gớm. Theo Phật giáo, tưởng là một trong ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tưởng là một tri giác bao gồm mọi nhận thức về thế giới vật lý và tâm lý. Thế giới vật lý trong thơ đã được ký hiệu hóa là “mồi”. Còn thế giới tâm lý lại là một cái bóng. Bóng hoa đào. Bởi thế, cá đớp bóng mà cứ ngỡ ấy là “mồi”. Thế đấy, tri giác luôn bị đánh lừa, do thực tại quá sinh động. Cuộc đời cũng vậy, con người luôn bị đánh lừa bởi những ảo tưởng. Ta có nghĩ rằng, ta đang chạy theo một cái bóng phù du không?
Có đấy!
Những danh lợi phồn hoa luôn là bả mồi cám dỗ, quyến dụ ta, hụt hơi mà không bao giờ tới đích.
Bài thơ cho ta một cú dừng. Thơ không hề đả động gì tới một mặt hồ, hay mặt ao nào cả, mà dòng đời là cả một mặt hồ, mặt ao long lanh. Những thứ in dưới đáy nước là ảo tưởng long lanh đó. Hành động của con cá “đớp” là hành động của con người. Những cú “đớp” làm đau đời sống!
Đẹp thật đấy, mà cũng ảo tưởng thật đấy.
Không biết có ai tỉnh ra không, chứ thơ có công năng thức tỉnh. Tiếng cá đớp mồi vô thanh, mà sao vang lên trong thơ Đỗ Tuyết Loan tiếng vang không dứt?
Phải rồi. Con cá đớp bóng hoa đào, mà lòng ta cứ ngỡ…
*
Ừ… XUÂN
Xuân ừ
bên nhau
không biết vì sao
(Như Trang)
– Thơ ư? Ừ thơ!
– Hay ư? Ừ hay!
Biết thơ hay, mà không biết hay chỗ nào. Vì sao? Đó là chỗ mà thơ Haiku giấu lời. Lời ẩn tàng trong ý tại. Hỏi xuân ư? Ừ xuân, là lẽ tất nhiên. Kiệm lời đến mức nhà thơ là một “Lãng nhân”. Lão lười, biếng nói, biếng viết. Mà viết rất sâu.
Nhà Phật đề ra thuyết: “sinh, trụ, dị, diệt, tức thành, trụ, hoại, không”, là bốn quy luật chi phối mọi hiện tượng trong vũ trụ. Mùa xuân sinh khí tụ cho cây cối nẩy mầm. Con người tụ bên nhau mới ra lễ nghĩa, nẩy lộc đâm chồi các niềm tin, thuần phong mỹ tục mới được giữ gìn. Mùa xuân ấm áp, lá hoa đua nở. Con người về bên nhau để chúc tụng, ca mừng sự sum họp. Vì thế mà bao ý thơ, nhạc, họa ra đời. Tự cổ chí kim, con người luôn ra đi và luôn trở về, là một nghĩa cử hồi hương rất đẹp trong hành trình đi tìm đất sống. Con cá hồi trở về khi đẻ trứng. “Cóc chết ba năm quay đầu về núi”. Con người thì ngày trở lại cúng viếng tổ tiên là ngày Tết. Ý nghĩa nguồn cội của người Á Đông rất được đề cao, và được xem như là bài học để hoàn thiện nhân cách. Nhà thơ Đỗ Trung Quân có bài thơ Quê Hương nổi tiếng (Giáp Văn Thạch phổ nhạc) như sau: “Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người…”. Vâng, thế đấy, nếu không có những ngày nhớ về bên nhau ấy, tức là sự trở về nơi bản quán, quê hương xứ sở, chất con sẽ không lớn nổi thành chất người, để làm một Con Người hoàn thiện được.
Nhưng kết luận: “không biết vì sao”, làm hoang mang tâm lý độc giả không ít. Nếu theo mạch, người ta có thể viết câu thứ ba: “giữa ngày nguyên đán”. Nghe nó trơn tru, liền lạc. Nhưng như vậy thì bài thơ mất hết chủ ý. Sẽ không còn cái chất bất chợt và gợi nữa. Không biết vì sao bởi chính lúc bên nhau đã quá đủ ý nghĩa rồi; không còn gì để nói chứ không phải là không biết.
Thơ cần gì phải biết.
Chỉ gợi thôi rồi “né sang một bên” cho độc giả thưởng ngoạn. Đó là sự chia sẻ và coi trọng độc giả!
Thật không? Ừ thật…
Ta cũng thật tình như haijin Như Trang. Cảm xúc là bất chợt, có sao nói vậy. Ừ… xuân!
NTN