Buson Taganuchi,Yosa (1716-1783) là một trong 4 Đại thụ của nền Haikư Nhật Bản cổ điển.Ông còn là họa sĩ nổi tiếng đương thời.Xuất thân từ một gia đình nông dân ở Kema,Quận Higashinari Tỉnh Settsu nay là Quận Osaka,vào thời kỳ bình trị của Thời đại Tokugawa.Làm nghề vẽ từ hồi còn rất trẻ,ông đã lên Edo (Tokyo) học vẽ với thầy Uchida Senzan trước khi thụ giáo thơ Haikư thầy Hayano vốn là đồ đệ của Kikaku và Ransetsu (môn sinh của Basho) trong 5 năm.Chỉ từ năm 1774,khi 58t mới dùng bút danh Buson.Năm 1751,cố định ở Kyoto,học xong hội họa.3 năm sau,dời về Yosa phía Bắc Kyoto trong 10 năm,lấy tên họ mới là YOSA quê mới,mở xưởng vẽ tranh bình phong chuyên nghiệp.45t lấy vợ là Tomo,có một con gái.Lập ra trường phái hội họa Nanga,lập Hội Thơ Shankasha cùng Tan Taigi,Shoha và các môn đệ của Hayano.Từ 1766 đến 1768,du ngoạn vùng Shikoku.Trở về, viết nhiều Haikư hay nhất.Năm 1770,đổi tên mới là Yahantei để tôn vinh thầy là Yahantei.Thời kỳ này ông viết nhiều,vẽ nhiều có nhiều tác phẩm lớn,đạt đỉnh cao sáng tạo hội họa và thi ca của ông.Ông là nhà Thi-Họa nổi tiếng, có những 25 bút danh và 2 họ.
Năm 1773,ông bắt đầu xuất bản thơ haikư của mình tiếp sau các tập in chung :Sono yuki kage ( Bóng của tuyết),Kono hotori (Ở gần đây),Ake garasu (Con quạ lúc bình minh),Zoku ake garasu (con quạ khác lúc bình minh) và Yakan raku (Mừng năm mới).Tiếng tăm về thi ca và hội họa ngày càng lớn,các tác phẩm họa của ông bán rất chạy.Trong một bức thư gửi bạn, ông tự đánh giá rất đúng “ Mình là vô địch so với người đương thời”.
Năm 1777,ông tự vạch ra kế hoạch độc đáo (như Hokusai khi về già):
-Mỗi buổi sáng vẽ một con SHISHI (con vật thần thoại dưới lốt sư tử)
Kết quả: được 219 bức.
-Ra tập SHIN HANATSUMI ( Mùa hái hoa mới).Dự định 1.000 bài.Mỗi ngày 10 bài/100 ngày liền.
Kết quả : Do sức khỏe ngày càng yếu nên chỉ đạt :
10 bài x 17ngày = 170 bài.
Ông mất ngày 25 tháng 12 năm 1783,an táng tại nghĩa trang phía trên đền Konpukuji,gần túp lều cỏ ẩn cư xưa của Cụ Basho mà ông đã thường cùng bà vợ sửa sang,tu bổ.
Nếu như Cụ Basho xưa đã nâng thơ Haikư lên tuyệt đỉnh vào hàng văn chương thanh cao nhất,thì Buson đến lượt mình lại cho thể thơ này hơi thở mới-đúng vào lúc Haikư đang bị bỏ rơi từ khi Basho qua đời năm 1694.Mãi 100 năm sau,Matsuo Shiki (1867-1902) đã trả lại công bằng cho Buson khi ông đặt Buson vào vị trí chuẩn xác trong Văn học Nhật Bản : “Lần đầu tiên So sánh BUSON ngang tầm với BASHO “…
*Xin tìm đọc bài viết chi tiết hơn về Đại thụ Haiku Nhật Bản cổ điển BUSON đăng trên Website Haikuviet .com ngày 19-5 – 2018.
HAIKƯ MÙA THU
Buson
Bài 1–
Thu sang-
Ờ!Ta công nhận
Hắt ,hắt,hắt… xì hơi
Bài 2-
Quá nhanh-
Phòng trưng bày mùa thu
vườn ớt chín đỏ
Bài 3-
Một tia chớp lóe
phản chiếu chiều tà
trong vũng nước con
Bài 4-
Hôm qua hoa anh đào
ngày mai lá phong đỏ
Còn đêm nay-Trăng!
Bài 5–
Làn nước mắt lụa-
Cung đàn biwa
một tiếng thu
Bài 6-
Những đồng hoa cải dầu
đêm sương sắp đến sớm
-Tiếng nai tác gọi bầy
Bài 7–
Những đỉnh núi Kai
ngọn cỏ xinh xinh
chiếc xe chở muối
Bài 8–
Dẫu còn lâu,mùa đông
mà sao lá thấp nhất rụng rồi
trên giàn bầu nậm rượu
Bài 9–
Mùa đông chưa sang
mà sao đã nhuốm vàng
lá non cây thuốc lá
Bài 10–
Ánh chớp
ngoằn ngoèo
trên Biển ISÊ
Bài 11–
Hướng về tiếng sáo trúc
sóng biển cũng dịch gần
đền SUMA mùa thu
Bài 12-
Tiếng bầy chim di cư
trên mái nhà gỗ nhỏ
ta nghe, lòng vui sao-
Bài 13-
Có con sơn tước
chuyền cành
đêm dài
Bài 14-
Vụt cánh chim bay
làm tơi tả rụng
quả bẹ chín hồng
Bài 15
-Ngược ánh hoàng hôn
Én bay
về tổ
Bài 16–
Du thuyền chơi trăng
đến chỗ nước nông
-Ai vừa đánh rơi một tẩu thuốc lá
Bài 17-
Những giọt trăng
rơi trên dăm người múa
Lễ vũ hội Bon
Bài 18–
Trên thuyền buồm dựng
đèn sáng đêm thu
xa dần ,xa dần
Bài 19–
Trăng ngự đỉnh trời
tôi vừa đi qua
một thị trấn nghèo xơ xác
Bài 20–
Thu tàn-
ánh lửa
lọt qua khung cửa một làng ngoại ô
Bài 21-
Quê ta
rượu sakê không ngon
vẫn nở hoa kiều mạch
Bài 22-
Trong bể tắm suối nước nóng
thấy rõ đôi bàn chân tôi
Sáng mùa thu này
Bài 23-
Mùi cá bống kho
từ ngôi nhà tranh
có gốc đào như ngày xưa vậy
Bài 25-
Sợi bấc nến nhỏ
khiến ta tin cậy
tu viện mùa thu
Bài 26–
Một cô gái đẹp
thổn thức trong quán trọ tồi tàn
Văng vẳng tiếng hươu
Bài 27-
Xa xa
từ những ngôi nhà nhỏ
thấp thoáng ánh đèn
Bài 28-
Đàn bà, trẻ con
ăn ở tạm trên đền
qua mùa thu giông bão
Bài 29-
“Đáng lẽ không thua!”
Đô vật Sumô
trên giường cảu nhảu
Bài 30–
Thoát hàm lũ sói
một vị sư già
ướt đẫm sương đêm
Bài 31
-Một con gấu trúc
gõ cửa nhà tôi
tiếc mùa thu qua
Bài 32–
Sumô tài giỏi
chẳng tìm đâu ra!
Cụ già than phiền
Bài 33–
Phận nghèo-
Mình lại say sưa
buổi sáng thu này
Bài 34–
Càng cô đơn hơn
-so cùng năm ngoái
buổi hoàng hôn thu
Bài 35–
Trong cảnh cô đơn
chiều thu buông xuống
cũng là niềm vui
Bài 36
-Có người đàn bà nào
lưu luyến ta không?
Màn đêm thu buông
Bài 37–
Tuy còn thức đấy
tôi bảo “Ngủ rồi!”
Đêm thu lạnh buốt
Bài 38-
-Cuộc đời là vậy!
Người khôn có bao giờ giàu
như lá sen rách thôi!
Bài 39-
Sương sớm
không đọng giá tuyết
một sợi tóc rụng rồi
Bài 40-
-Cô quạnh thằng tôi
quên đem gậy chống
Buổi hoàng hôn thu
Bài 41-
Có món nợ nhỏ
xin khất trả sau
Mùa thu muộn này
Bài 42-
“ Nào!hãy giống người!”
ông già ước thế
khi dựng con bù nhìn
Bài 43-
Sương thu
cỏ ba lá nở hoa
ngay dưới chân tôi
Bài 44–
Hoàng hôn trên đền cổ
đại mạch nở hoa
màu trắng lấp lánh
Bài 45–
Hoa cúc tỏa hương
đêm trăng
mù sương
Bài 46–
Hoa lan trong đêm
làn hương giấu kín
trong màu trắng tinh khôi
Bài 47–
Chiếc đuôi không nhuộm
dễ thương quá thôi
con chuồn chuồn chúa!
Bài 48-
Một chú cáo con
Ai chọc chú đâu
trong đám cỏ ba lá
Bài 49–
Giữa bụi bờ hoang
đêm nay đẹp quá
côn trùng ca vang
Bài 50–
Côn trùng nỉ non
bỗng xé màn đêm
tiếng chú khỉ bị thương
Bài 51–
Con hươu chừng thấy lạnh
cặp sừng-cành trụi lá
cắm chặt vào thân hình
Bài 52–
Đôi hươu trong mưa
say sưa tình tự
chỉ cặp sừng vô tư
Bài 53-
Đàn hươu đực
những cặp sừng xa, gần nhọn hoắt
mỗi con tìm một nơi
Bài 54–
Lúa treo phơi nắng
chuột rúc rích tìm –
ruộng lúa chín vàng ngay trước cổng
Bài 55–
Ngửa cổ lên trời
con hươu than khóc
nước mắt là sương trăng
Bài 56–
Ngư ông đi vắng
lũ cá dưới dòng
nhởn nhơ
Bài 57–
Theo đợt triều đầu tiên
lội ngược dòng
đàn cá hồi nô nức
Bài 58–
Tia nắng chiều tà
lướt qua
nhuộm vàng thân kiều mạch
Bài 59–
Gặt lúa trên đồng
giữa đám cỏ non
mặt trời thu rụng
Bài 60–
Chút gì còn lại
cuộc đời hữu hạn –
Hoàng hôn mùa Thu
Bài 61–
Mải mê hái nấm
Khi ngẩng đầu lên
trăng nhô đỉnh núi
Bài 62-
Đây là nơi
tản ra mây trắng
Trăng chiếu trên thung
Bài 63-
Đêm trên ao
bỗng ta chợt muốn
làm nghiêng trăng với chiếc sào dài
Bài 64-
Vầng trăng đêm nay-
Ngước nhìn trăng sáng
chạy cười ha hả, một người mù
Bài 65-
Đàn cá lội xuôi dòng
cao cao dần
đỉnh núi
Bài 66-
Những người mót lúa
đi
về phía mặt trời
Bài 67-
Một đêm thu nọ
có một thiếu phụ
lấy ống tay áo mình lau vết gương mờ
Bài 68-
Thợ hái bông
nhìn chằm chằm hoa thuốc lá
Nghỉ giữa chừng
Bài 69-
Thầy giáo đang viết
Mũi đỏ ửng
đêm thu buốt giá
Bài 70-
Bước trên thảm lá quạt khô
một chú tiểu
vừa xuống núi
Bài 71
Câu cá
lương tâm cắn rứt
mặt sóng trăng soi
Bài 72-
“ Bắt đầu bắn pháo hoa”
đêm trăng ở Yodo
tại một quán trà
Bài 73-
Xem bắn pháo hoa
tại một phố biển
có chừng trăm mái nhà
Bài 74-
Tình yêu muôn màu
dệt bao nguyện ước
màu trắng lên đầu
Bài 75-
Thu sang-
trên đồng mênh mông
sao không bóng lữ hành?
Bài 76-
Thú vị làm sao
Yên cương thắng sẵn
cây lá quạt rụng đầy
Bài 77
Mưa sa vào ruộng lúa
rồi từ lúa rơi ra
Nước mưa mùa thu
Bài 78–
Làn gió thổi qua
con bù nhìn
động đậy
Bài 79–
Vài khách lữ hành
trước lúc lên đường
vẽ một mặt người lên bầu rượu
Bài 80-
Những giọt sương mai
trên cành hồng dại
mỗi giọt một gai
Bài 81–
Chia đôi nhánh nhỏ
Vẫn chảy riêng dòng
Nước mưa mùa thu
Bài 82–
Người lái đò
cầm sẵn chiếc sào
Cơn bão mùa thu
Bài 83-
Nỗi muộn phiền
gió thu thổi cong
sợi dây cần câu cá
Bài 84-
Gió bấc lạnh tê
thổi từ mây xuống
quàng quạc không ngưng tiếng ngỗng trời
Bài 85–
Trăng đêm mười sáu
mây phủ quang rồi
Gió mùa thu cuốn
Bài 86-
Đêm trăng, người bảo vệ
cánh đồng phủ kín băng
tiếng hươu nai tác
Bài 87–
Tiếng hươu gào thảm thiết
mưa đêm tạnh rồi
Liềm trăng suông rạng sáng
Bài 88-
Một tay đại bợm
cùng một nhà thơ-
Chung vầng trăng ,đêm nay …
Bài 89
Cho người ra đi
cho người ở lại –
Hai mùa thu riêng…
***
Ngõ bằng lăng Làng Tám
Hà Nội- Tiết Hàn lộ- 2018
Tủ sách dịch thơ haikư Nhật Bản &Thế giới
Đinh Nhật Hạnh
***
Tham khảo
“The heart of Buson”- Takofumi Saito &William R.Nelson-,2005