Michael R. Burch tuyển và bình
Lê Văn Truyền dịch
ĐỊNH NGHĨA HAIKU
Haiku là gì? Trong ngôn ngữ Nhật Bản, từ “hai” có nghĩa là “khác thường/tuyệt vời” (unsual) và “ku” có nghĩa là “khổ thơ” (verse/strophe). Sir George Sansom gọi haiku là “những giọt tinh túy thi ca” (little drops of poetic essence). Harold Henderson gọi haiku là những khoảnh khắc “thiền định” (meditations). Tôi nghĩ về haiku như là những lát cắt được cấu trúc bằng ngôn từ, là “hình ảnh bằng ngôn ngữ”. Một định nghĩa có ích khác: haiku là những “hình ảnh siêu nghiệm” (transcendent images). Ví như khúc haiku sau đây:
Grasses wilt:
the braking locomotive
grinds to a halt
Yamaguchi Seishi, Michael R. Burch phỏng dịch
Ngọn cỏ héo
đầu tầu giảm tốc vào ga
nghiền nát
Lê văn Truyền dịch
Trong phiến khúc haiku trên đây, những ngọn cỏ tàn úa mùa thu và đầu tầu vào ga nghiền nát tượng trưng cho sự già cỗi, chết chóc. Dưới bàn tay của thi sỹ tài hoa, hai hình ảnh đơn giản đã thay lời muốn nói.
Trong khi theo truyền thống Nhật Bản, haiku được viết thành 3 dòng với 5-7-5 âm tiết thì trong sáng tác haiku bằng tiếng Anh, đó không phải là một nguyên tắc cứng nhắc, vì vậy, khi dịch haiku trong nhiều trường hợp tôi đã dùng số âm tiết nhiều hơn miễn là chuyển tải được hình ảnh, cảm xúc và ý nghĩa của khúc haiku theo như tôi cảm nhận được.
ẢNH HƯỞNG CỦA HAIKU ĐỐI VỚI THƠ CA ANH NGỮ HIỆN ĐẠI
Ảnh hưởng của haiku đối với thơ ca anh ngữ hiện đại rất hiển nhiên và rõ nét. Quả thực, có nhiều quy tắc của chủ nghĩa Ấn Tượng (Imagism) bắt nguồn từ haiku, ví dụ như việc sử dụng trí tưởng tượng và việc xử lý trực tiếp sự vật (chủ thể/khách thể). Ezra Pound, cha đẻ và là người tiên phong của trường phái Ấn Tượng đã dịch nhiều thơ phương Đông và cũng đã sáng tác nhiều bài thơ tương tự. Bài thơ ngắn “Trong ga tầu điện ngầm” sau đây là một trong những bài thơ của ông mang sắc thái haiku:
The apparition of these faces in the crowd;
petals on a wet, black bough.
Ezra Pound
Những khuôn mặt xuất hiện trong đám đông
những cánh hoa trên cành cây đen, đẫm nước.
Lê Văn Truyền dịch
Những thi phẩm nổi tiếng mang dáng dấp haiku gồm có “The Red Wheelbarrow” (Bánh xe cút kít mầu đỏ) của William Carlos Williams và “Thirteen Ways of Looking at a Blackbird” (Mười ba cách ngắm nhìn một con chim hét) của Wallace Stevens. Các nhà thơ Anh khác đã sáng tác, dịch và chịu ảnh hưởng của haiku gồm có Richard Wright, Allen Ginsberg, Gary Snyder, Jack Kerouac, Amy Lowell, Kenneth Rexroth, Margaret Atwood, Robert Hass và Paul Muldoon. Cũng có thể nhận thấy ảnh hưởng rất sớm của Phương Đông đối với các sáng tác của những nhà thơ trường phái hiện đại như Walt Whitman, Ralph Waldo Emerson và Henry David Thoreau.
Dưới đây là bản dịch của tôi một số khúc waka cổ nhất của Nhật Bản, mà theo thời gian đã phát triển thành các biến thể như tanka, renga và haiku. Các khúc waka này được trích từ tác phẩm Kojiki (Thi phẩm của các bậc thầy) được nhà thơ Ô no Yasumaro biên soạn vào khoảng năm 711-712 sau Công Nguyên. Thi phẩm Kojiki thuật lại sự khởi đầu có tính thần thoại và lịch sử của vương triều.
Đây là một trong những bài thơ cổ nhất ghi chép trong quyển sách cổ nhất của Nhật Bản:
While you decline to cry,
high on the mountainside
a single stalk of plumegrass wilts.
Ô no Yasumaro (khoảng 711), Michael R. Burch phỏng dịch
Khi bạn muốn khóc
trên núi cao
bông lau đơn côi héo rũ
Lê Văn Truyền dịch
Và đây, là một trích dẫn khác với sắc thái hài hước cũng từ Kojiki
Hush, cawing crows; what rackets you make!
Heaven’s indignant messengers,
you remind me of wordsmiths*!
Ô no Yasumaro (khoảng 711), Michael R. Burch phỏng dịch
Tĩnh mịch, tiếng quạ kêu vang
những sứ giả phẫn nộ của Thượng đế
nhắc nhở ta về những nhà văn
Lê Văn Truyền dịch
*Wordsmith: nhà văn tài năng
Và một bài khác:
Onyx, this gem-black night.
downcast, I await your return
like the morning sun, unrivaled in splendor
Ô no Yasumaro (khoảng 711), Michael R. Burch phỏng dịch
Mã não, viên ngọc huyền
ta chờ em trở lại
mặt trời rực rỡ vô song
Lê Văn Truyền dịch
TÓM TẮT LỊCH SỬ VÀ BIÊN NIÊN SỬ HAIKU
Snow-obscured heights,
mist-shrouded slopes:
this spring evening.
Ilio Sõgi (1421-1502), Michael R. Burch phỏng dịch
Đỉnh núi tuyết phủ
dốc núi mờ sương
trong chiều Xuân này
Lê văn Truyền dịch
Soundlessly they go,
the herons passing by:
arrows of snow filling the sky.
Yamâzki Sõkan (1464-1552),Michael R. Burch phỏng dịch
Đàn diệc lặng lẽ bay
những mũi tên tuyết trắng
ngập tràn bầu trời xanh
Lê văn Truyền dịch
O, fluttering moon,
if only we could hang a handle on you,
what a fan you would be!
Arakida Moritake (1472-1549), Michael R. Burch phỏng dịch
Ôi vầng trăng lung linh
chỉ cần ta gắn thêm cái cán
em sẽ là
chiếc quạt
Lê Văn Truyền dịch
An orphaned blossom
returning to its bough, somehow?
No, a solitary butterfly.
Arakida Moritake (1472-1549), Michael R. Burch phỏng dịch
Một bông hoa mồ côi
sao bay ngược lên cành?
ồ không, một chú bướm!
Lê Văn Truyền dịch
Life: a solitary butterfly
swaying unsteadily on a slender stalk of grass,
nothing more. But so exquisite!
Nishiyama Soin (1605-1682), Michael R. Burch phỏng dịch
Cuộc đời là cánh bướm cô đơn
lửng lơ trên ngọn cỏ mong manh
còn gì thanh tao hơn
Lê Văn Truyền dịch
This darkening autumn:
my neighbor,
how does he continue?
Matsuo Basho (1644-1694), Michael R. Burch phỏng dịch
Mùa thu ảm đạm này
người hàng xóm của tôi
liệu có qua khỏi?
Lê Văn Truyền dịch
Autumn darkness
descends
on this road I travel alone
Matsuo Basho (1644-1694), Michael R. Burch phỏng dịch
Bóng tối chiều thu
buông xuống con đường
tôi đang độc hành
Lê Văn Truyền dịch
Lightning
shatters the darkness
the night heron’s shriek.
Matsuo Basho (1644-1694), Michael R. Burch phỏng dịch
Ánh sáng xua tan bóng tối
trong đêm đen
tiếng thét người anh hùng
Lê Văn Truyền dịch
An ancient pond,
the frog leaps:
the silver plop and gurgle of water.
Matsuo Basho (1644-1694), Michael R. Burch phỏng dịch
Ao xưa
con ếch nhảy vào
nước xao sóng bạc
Lê Văn Truyền dịch
A crow settles
on a withered branch:
autumn nightfall.
Matsuo Basho (1644-1694), Michael R. Burch phỏng dịch
Một con quạ đậu
trên cành cây khô
hoàng hôn mùa Thu
Lê Văn Truyền dịch
My eyes,
having observed everything,
returned to the white chrysanthemums.
Kosugi Isshõ (1652-1688), Michael R. Burch phỏng dịch
Đôi mắt tôi
nhìn ngắm khắp nơi
rồi hướng về đóa cúc trắng
Lê Văn Truyền dịch
A white swan
parts the cherry-petalled pond
with her motionless breast.
Roka (1671-1703), Michael R. Burch phỏng dịch
Cái ức im lìm
con thiên nga trắng
rẽ mặt ao ngập cánh anh đào
Lê Văn Truyền dịch
Năm 1694, Roka trở thành một môn đệ thụ giáo haiku với Basho; và đó là những năm cuối đời của Basho.
Useless dreams, alas!
Over desolate fields
winds whisper as they pass.
Uejima Onitsua (1661-1738), Michael R. Burch phỏng dịch
Ôi, những giấc mơ hão huyền
gió xào xạc lướt qua
trên cánh đồng hoang vắng
Lê Văn Truyền dịch
Observe:
see how the wild violets bloom
within the forbidden fences!
Shida Yaba (1663-1740), Michael R. Burch phỏng dịch
Hãy ngắm nhìn:
hoa tím dại bừng nở
trong bờ rào hoang
Lê Văn Truyền dịch
Leaves, like the shadows of crows
cast by a lonely moon.
Kaga no Chiyo (1703-1775), Michael R. Burch phỏng dịch
Những chiếc lá
bóng những con quạ đen
gieo trên mặt trăng cô đơn
Lê Văn Truyền dịch
A kite floats
at the same place in the sky
where yesterday it floated …
Yosa Buson (1716-1783), Michael R. Burch phỏng dịch
Con diều trôi
trên bầu trời
đúng chỗ hôm qua nó lượn
Lê Văn Truyền dịch
Standing beneath cherry blossoms
who can be strangers?
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Ngồi dưới anh đào nở
xa lạ với nhau sao được?
Lê Văn Truyền dịch
Overdressed for my thatched hut:
a peony blossoms.
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Lợp lại mái tranh
túp lều của tôi
đóa mẫu đơn nở
Lê Văn Truyền dịch
Oh, magnificent peony,
please don’t disdain
these poor surroundings!
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Ơi đóa mẫu đơn lộng lẫy
hãy đừng kiêu kỳ
giữa những cảnh đời gieo neo
Lê Văn Truyền dịch
Insolent peony!
demanding I measure your span
with my fan?
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Bông mẫu đơn hỗn hào
dám đòi ta đo cánh hoa ngươi
bằng cái quạt?
Lê Văn Truyền dịch
“This big!”
the child’s arms
measured the peony.
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Đôi tay trẻ thơ
đo bông hoa mẫu đơn
“Ồ! Nó thật to!”
Lê Văn Truyền dịch
Peonies blossom;
the world is full of fibbers.
Kobayashi Issa (1763-1827), Michael R. Burch phỏng dịch
Mẫu đơn bừng nở
quanh ta đầy người dối trá
Lê Văn Truyền dịch
Hình như Issa có một phức cảm yêu – ghét đối với những bông hoa mẫu đơn, bà viết đến 84 khúc haiku về loài hoa này, khi thì ca ngợi và khi thì phê phán vẻ kiêu kỳ của chúng.
SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA THI CA TRỮ TÌNH VÀ TRÀO PHÚNG
Đây là một bài thơ cổ viết về một nửa thế gian xa xôi:
Sing, my sacred tortoiseshell lyre;
come, let my words
accompany your voice
Sappho, Michael R. Burch phỏng dịch
Cây thụ cầm đồi mồi thần thánh
hãy cất tiếng đàn
cho ta hòa ca
Lê Văn Truyền dịch
Sappho là nhà thơ trữ tình đầu tiên mà ngày nay chúng ta vẫn nhắc đến tên tuổi của bà và nữ thi sỹ có thể vẫn là nhà thơ trữ tình lớn nhất cho đến hiện nay. Nữ haijin nổi tiếng về sự dí dỏm, giống như haiku là đơn giản, súc tích đôi khi đến mức làm ta sửng sốt. Vì tôi đã phụ trách một trang thơ trữ tình hay nhất mọi thời đại, tôi đã viết khúc haiku sau đây một cách hoàn toàn bất ngờ. Và hoàn toàn không dự định, tôi đã chấm dứt trang thơ trữ tình và bắt đầu dịch nhiều bài haiku.
Dark-bosomed clouds
pregnant with heavy thunder …
the water breaks
Michael R. Burch
Những đám mây đen
thai nghén sấm sét…
mưa tuôn như vỡ ối
Lê Văn Truyền dịch
Và sau đây là bản dịch tiếng Anh của tôi về một trong những khúc haiku của bậc thầy Nhật Bản Basho mà tôi yêu thích.
The butterfly
perfuming its wings
fans the orchid
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Chú bướm
quạt cánh hoa lan
ướp thơm đôi cánh
Lê Văn Truyền dịch
Thật thú vị khi nhận thấy sự tương đồng giữa ba bài thơ của những nhà thơ rất khác biệt. Sappho là một nhà thơ của Hy Lạp cổ đại sinh trưởng ở đảo Lesbos; tính cách tình dục đồng giới của bà đã mang lại sự biểu đạt và nghĩa rộng của những từ “Lesbian” hay “Sapphic” mà chúng ta sử dụng trong ngôn ngữ hiện đại.
Matsuo Basho là một bậc thầy haiku cổ của Nhật Bản, đã ảnh hưởng, và vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ Phương Tây. Tôi là một nhà thơ Mỹ không mấy tên tuổi nhưng rất yêu thích các trường phái thơ ca khác nhau. Các bài thơ cùng có chung các đặc điểm, đó là sự khúc chiết, súc tích, trong sáng và việc sử dụng hình ảnh để biểu đạt cảm xúc. Trong mỗi bài thơ, người thi sỹ sử dụng hình ảnh để truyền đạt những thông tin về cảm xúc của mình còn nhiều hơn những dòng văn xuôi.
Sappho dùng hình ảnh cây đàn “lyre”, một loại đàn giống cây thụ cầm (đàn harp), nhạc cụ đã đem lại thuật ngữ hiện đại “thơ trữ tình” (lyric poetry). Khi Sappho nói đến “cây đàn lyre thần thánh” (the lyre sacred), nhà thơ cũng đã nhắc đến Muse, những nữ thần Thơ Ca (những vị thần của Hy Lạp cổ đại đã giải thích cội nguồn của thi ca, là nguồn cảm hứng tuyệt diệu).
Thơ haiku của Basho là những tuyệt tác có thể làm cho ta nhầm lẫn vì tuy hình thức và cấu trúc đơn giản nhưng chúng có thể lột tả một cách sinh động “bản chất cộng sinh” (symbiotic nature) của cuộc sống. Những con bướm hút mật hoa, và qua đó, giúp hoa thụ phấn. Thơ của Basho là một minh chứng cho nghệ thuật phản ánh thiên nhiên; thật khó để nói lên cái gì là đáng yêu hơn: con bướm, nhành lan hay những dòng thơ được khắc họa một cách trang nhã. Khúc haiku của tôi so sánh những đám mây tích sấm sét, một cơn mưa với một phụ nữ mang thai đang vỡ ối. Tôi cho rằng đó là một hình ảnh có hiệu ứng, mặc dù tôi nghĩ bạn đọc có thể cho rằng tôi không xứng đáng là một bậc thầy haiku. Hy vọng rằng, tôi có thể dành cho bạn đọc sự tôn trọng xứng đáng. Và bây giờ, sau đây là những khúc haiku tôi yêu thích.
Pausing between clouds
the moon rests
in the eyes of its beholders
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Giữa những đám mây trắng
mặt trăng nghỉ ngơi
trong mắt người ngưỡng vọng
Lê Văn Truyền dịch
Khúc haiku trên đây cũng đã bày tỏ được sự đơn giản và sức mạnh của bài thơ dưới tay một ngòi bút tài năng. Khi một bậc thầy như Basho viện dẫn hình ảnh của mặt trăng, Basho có thể cuốn chúng ta đến với tất cả những gì chúng ta biết và tất cả cảm xúc của chúng ta về Chị Hằng.
Oh, fallen camellias,
if I were you,
I’d leap into the torrent!
Takaha Shugyo, Michael R. Burch phỏng dịch
Ôi đóa hoa trà rụng
nếu là ngươi
ta đã gieo mình vào giòng suối
Lê Văn Truyền dịch
Bài thơ trên đây là một khúc haiku khác mà tôi đặc biệt yêu thích, vì nhà thơ đã làm người đọc thấu cảm với những nhành hoa khô héo. Khi tôi dịch bài thơ này, tôi nhìn thấy ở ngoài trời những cánh hoa rơi tơi tả trong mưa và hình như nhà thơ gợi cho ta rằng một cái chết nhanh chóng tốt hơn một cái chết từ từ, chậm rãi. Bài thơ hình như cũng là một gợi ý về sự tự vẫn hoặc cái chết không đau đớn (euthanasia) cũng là một giải pháp so với cái chết khổ sở kéo dài, mặc dù vẫn có những cách diễn giải khác nhau về khúc haiku này. Một bài thơ hay là một bài thơ có thể gợi cho người đọc nhiều cách diễn giải khác nhau.
Eros harrows my heart:
a wind on desolate mountains
uprooting oaks.
Sappho, đoạn 42, Michael R. Burch phỏng dịch
Những người anh hùng dày vò tim ta
ngọn gió trên núi đồi hoang vu
bật gốc cây sồi già
Lê Văn Truyền dịch
Tôi nghĩ trong bài thơ này của Sappho hiện hữu “sự tương đồng nguồn cội” (family resemble) giữa dòng thơ trữ tình ngắn gọn, súc tích và đầy sức gợi của Sappho với dòng thơ của các bậc thầy phương Đông.
When you opened my letter
were you surprised
my heart fell out?
Michael Windsor McClintock
Khi mở lá thư
em có ngạc nhiên
thấy trái tim anh rơi ra?
Lê Văn Truyền dịch
Next door
the lovemaking subsides
stars fall from other worlds
Michael Windsor McClintock
Nhà bên
cuộc yêu lắng xuống
những vì sao rơi từ thế giới khác
Lê Văn Truyền dịch
An old photo of my parents
young and happy –
of all the things I own
that is the saddest
Michael Windsor McClintock
Một bức ảnh cũ
bố mẹ vui vẻ trẻ trung –
buồn thay những gì tôi đang có
Lê Văn Truyền dịch
Ba bài thơ trên đây là của Michael Windsor McClintock, một nhà thơ Hoa Kỳ đương thời. Vào những năm 1960’ nhà thơ là Phụ Tá Biên Tập tạp chí “Haiku Hightlights”. Trong những năm 70’ ông là Phụ Tá Biên Tập tạp chí “Modern Haiku”, là biên tập tạp chí “American Haiku Poets Series” và tạp chí “Seer Ox: American Senryu Magazine”. Tôi nghĩ các bài haiku của ông đã cho thấy những hình ảnh trong sáng, giản dị có thể gợi cho ta bao nhiêu là cảm xúc: một phong thư được mở ra, một ngôi sao băng trên bầu trời, một bức ảnh của người yêu dấu đã rung động trái tim ta như thế nào.
Tôi nghĩ những bậc thầy thời xưa cũng sẽ tán thưởng những bài thơ như thế này.
One apple, alone
in the abandoned orchard
reddens for winter
Patrick Blanche, Michael R. Burch phỏng dịch
Trong vườn hoang
quả táo cô đơn ngượng ngùng
đỏ mặt vì mùa Đông
Lê Văn Truyền dịch
Bài thơ trên đây của một nhà thơ Pháp cho ta thấy thơ ca của các bậc thầy Phương Đông đã ảnh hưởng như thế nào đến nền thi ca trên thế giới.
Our life here on earth:
to what shall we compare it?
It is not like a rowboat
departing at daybreak,
leaving no trace of us in its wake?
Takaha Shugyo, Michael R. Burch phỏng dịch
Cuộc sống trên đời
có gì sánh được?
Không như chiếc du thuyền
khởi hành buổi rạng đông
không để lại dấu tích của ta trên vệt sóng
Lê Văn Truyền dịch.
Bài thơ trên đây là một bài tanka, một thể thơ phương Đông khác. Bài thơ nói về bệnh tật của con người: có bao nhiêu người đã chết mỗi ngày mà không “wake” (để lại vết tích)? Đối với mỗi Shakespeare trong ta, có hàng triệu con người bình thường tồn tại trong ký ức của mọi người. Nhà thơ hay nhất là nhà thơ biết nói lên sự thật. Không như những “ông lang băm” và những “ông thầy bói”, nhà thơ đem đến cho độc giả sự thật trần trụi mà nhà thơ cảm thấy được.
Graven images of long-departed gods,
dry spiritless leaves:
companions of the temple porch
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Hình ảnh của thần linh
khắc trên những chiếc lá khô vô hồn
bạn đồng hành của cổng đền
Lê Văn Truyền dịch
Tôi rất thích khúc haiku trên đây của Basho bởi vì nó đề cập đến sự xác tín và quyền lực của tôn giáo. Các “lang băm”, thầy tu và các nhà truyền giáo của bất kỳ tôn giáo nào cũng luôn nói về Thượng Đế và Thánh Thần nhưng Thượng Đế của họ bất công và vô hiệu một cách khác thường. Thượng Đế của những “lang băm”, tu sĩ và nhà truyền giáo không bao giờ có thể tránh được bệnh tật và cái chết: với các nhà thơ nói lên sự thật, điều đó là hiển nhiên.
Sau đây là một bài thơ làm cho tôi nghĩ rằng Basho không bao giờ là tín đồ của những tôn giáo được lập ra như vậy:
The temple bells grow silent
but the blossoms provide their incense
a perfect evening!
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Chuông chùa dần lặng
hoa nở ngát hương
hoàng hôn tuyệt đẹp
Lê Văn Truyền dịch
Và một bài khác:
See: whose surviving sons
visit the ancestral graves
white-bearded, with trembling canes?
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Hãy nhìn những đứa con sống sót
râu tóc bạc run rẩy chống gậy
viếng mộ cha ông
Lê Văn Truyền dịch
Một lần nữa, Basho đã nói lên một cách trung thực một sự thật rất thuyết phục dù có làm cho ta nản lòng. Những nhà thơ Hy Lạp cổ đại cũng không ngần ngại nói về cái chết một cách trực diện. Sau đây là một đoạn văn bia Hy Lạp cổ đại khắc trên đá gợi cho ta nhớ đến Basho:
Does my soul abide in heaven, or hell?
only the sea gull
in his high, lonely circuits, may tell
Michael R. Burch, theo Glaucus
Linh hồn ta sẽ ở Thiên Đàng hay Địa Ngục?
chỉ con mòng biển cô đơn
bay trên trời mới biết
Lê Văn Truyền dịch
Và đây là một đoạn văn bia cổ Hy Lạp khác có thể sánh được với một khúc haiku hay nhất về sự đơn giản, chân thật, rõ ràng và thẳng thắn của nó:
Mariner, do not ask whose tomb this may be,
but go with good fortune: I wish you a kinder sea.
Michael R. Burch, theo Plato
Hỡi thủy thủ, đừng hỏi đây là nấm mồ của ai
ra khơi may mắn và hãy là đứa con của biển khơi
Lê Văn Truyền dịch
Hai khúc haiku dưới đây là của một nữ haijin Nhật Bản, Hisajo Sugita:
I remove my beautiful kimono:
its varied braids
surround and entwine my body
Hisajo Sugita, Michael R. Burch phỏng dịch
Cởi chiếc kimono đẹp đẽ
những dải áo
quấn quanh thân tôi
Lê Văn Truyền dịch
This day of chrysanthemums
I shake and comb my wet hair,
as their petals shed rain
Hisajo Sugita, Michael R. Burch phỏng dịch
Ngày Hoa cúc
tôi vẩy làn tóc ướt
những cánh hoa tỏa mưa
Lê Văn Truyền dịch
Và, sau đây là một số khúc haiku của Matsuo Basho:
Let us arrange
these lovely flowers in the bowl
since there’s no rice
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Hãy cắm những bông hoa đẹp
trong cái bát
đã lâu không còn một hạt cơm
Lê Văn Truyền dịch
The first soft snow:
leaves of the awed jonquil
bow low
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Bông tuyết đầu mùa:
lá cây hoa trường thọ
cúi chào
Lê Văn Truyền dịch
Come, investigate loneliness!
a solitary leaf
clings to the Kiri tree
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Hãy nghiền ngẫm nỗi cô đơn!
chiếc lá đơn côi
níu lấy cây Kiri
Lê Văn Truyền dịch
The first chill rain:
poor monkey, you too could use
a woven cape of straw
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Mưa đầu mùa lạnh lẽo:
con khỉ đáng thương
hãy đội chiếc mũ rơm
Lê Văn Truyền dịch
This snowy morning:
cries of the crow I despise
(ah, but so beautiful!)
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Buổi sáng tuyết lạnh này
tôi không màng đến tiếng quạ
(ôi, buổi sáng tuyệt đẹp!)
Lê Văn Truyền dịch
Like a heavy fragrance
snow-flakes settle:
lilies on rocks
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Như mùi hương ngát
hoa tuyết bậu trên đá
những bông huệ tây
Lê Văn Truyền dịch
The cheerful-chirping cricket
contends gray autumn’s gay,
contemptuous of frost
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Tiếng dế rả rích
đua với thu vàng
không màng sương giá
Lê Văn Truyền dịch
Whistle on, twilight whippoorwill,
solemn evangelist
of loneliness
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Hoàng hôn, tiếng hót chim bắt muỗi
lời phúc âm trang nghiêm
nỗi niềm hiu quạnh
Lê Văn Truyền dịch
The year’s first day …
thoughts come, and with them, loneliness;
dusk approaches.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Ngày tân niên
cô đơn cùng những suy tư;
hoàng hôn buông xuống
Lê Văn Truyền dịch
An empty road
lonelier than abandonment:
this autumn evening
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Con đường trống vắng
cô đơn hơn bị bỏ rơi
trong chiều thu này
Lê Văn Truyền dịch
Ballet in the air!
two butterflies, twice white,
meet, mate, unite.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Vũ điệu không trung
đôi bướm trắng gặp nhau
hòa hợp kết đôi
Lê Văn Truyền dịch
High-altitude rose petals
falling
falling
falling:
the melody of a waterfall.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Từ trên cao
những cánh hoa hồng
rơi
rơi
rơi
giai điệu của dòng thác
Lê Văn Truyền dịch
The cicada’s cry
contains no hint to foretell
how soon it must die.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Ve sầu ca vang
không hề biết trước
khi nào đời tàn
Lê Văn Truyền dịch
Fever-felled mid-path
my dreams resurrect, to trek
through a hollow land
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Cơn sốt kinh hoàng
giấc mơ trỗi dậy
dìu tôi qua miền đất hoang
Lê Văn Truyền dịch
The sea darkening,
the voices of the wild ducks:
my mysterious companions!
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Mặt biển tối dần
tiếng kêu vịt hoang
người bạn đường bí ẩn
Lê Văn Truyền dịch
Will we meet again?
here at your flowering grave:
two white butterflies
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Khi nào gặp lại
hai con bướm trắng
trên mồ nở hoa?
Lê Văn Truyền dịch
These wilting summer flowers?
The only remains
of “invincible” warriors ..
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Những bông hoa mùa hè héo tàn
chỉ còn lại
những người chiến binh vô địch.
Lê Văn Truyền dịch
Spring has come:
the nameless hill
lies shrouded in mist
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Mùa xuân đã đến
ngọn đồi vô danh
ẩn mình trong sương
Lê Văn Truyền dịch
Among the graffiti
one illuminated name:
Yours.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Giữa những bức tranh tường cổ
chỉ một cái tên rực rỡ
ấy là tên em
Lê Văn Truyền dịch
A spring wind
stirs willow leaves
as a butterfly hovers unsteadily.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Ngọn gió Xuân
lá liễu lay
cánh bướm lửng lơ
Lê Văn Truyền dịch
Swallow flitting in the dusk,
please spare my small friends
buzzing among the flowers!
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Chim nhạn liệng trong đêm
hãy để những bạn nhỏ của tôi
lượn giữa những đóa hoa
Lê Văn Truyền dịch
Morning glories blossom,
reinforcing the old fence gate.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Bình minh huy hoàng bừng nở
cổng rào cũ chắc hơn
Lê Văn Truyền dịch
Scrawny tomcat!
Are you starving for fish and mice
or pining away for love?
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Con mèo đực tong teo
vì đói ăn
hay vì nỗi thất tình ray rứt
Lê Văn Truyền dịch
The moon: glorious its illumination!
therefore, we give thanks.
dark clouds cast their shadows on our necks.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Vầng trăng sáng huy hoàng
cám ơn đám mây đen
thả bóng trên cổ ta
Lê Văn Truyền dịch
Curious flower,
watching us approach:
meet Death, our famished donkey.
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Đóa hoa hiếu kỳ
lại gần ta rình rập:
gặp Thần chết, con lừa khốn khổ
Lê Văn Truyền dịch
Ah me,
I waste my meager breakfast
morning glory gazing!
Matsuo Basho, Michael R. Burch phỏng dịch
Ồ,
tôi bỏ bữa sáng đạm bạc
để ngắm bình minh rực rỡ
Lê Văn Truyền dịch
Và dưới đây là một số bài của các nhà thơ khác:
Right at my feet!
When did you arrive here,
snail?
Kobayashi Issa, Michael R. Burch phỏng dịch
Chú sên
đến đây khi nào
ngay dưới chân tôi
Lê Văn Truyền dịch
Oh, brilliant moon
is it true that even you
must rush away, as if tardy?
Kobayashi Issa, Michael R. Burch phỏng dịch
Ôi, vầng trăng sáng
cũng vội vàng trôi
như sắp muộn rồi
Lê Văn Truyền dịch
Ghostly the gray cow comes
mooing
mooing
mooing
out of the morning mist.
Kobayashi Issa, Michael R. Burch phỏng dịch
Con bò xám trơ xương
rống
rống
rống
vang trong sương sớm
Lê Văn Truyền dịch
Peonies blossom;
the world is full of blooming liars.
Kobayashi Issa, Michael R. Burch phỏng dịch
Hoa diên vỹ nở
thế giới đầy người dối trá
Lê Văn Truyền dịch
After killing a spider,
I was overcome by loneliness
in the bittercold night.
Masaoka Shiki (1867-1902), Michael R. Burch phỏng dịch
Tôi giết một con nhện
lòng ngập tràn cô đơn
trong đêm đen giá buốt
Lê Văn Truyền dịch
Summer river:
ignoring the bridge,
my horse charges through the water.
Masaoka Shiki (1867-1902), Michael R. Burch phỏng dịch
Không màng đến cây cầu
trên dòng sông mùa hạ
ngựa thồ lội nước qua sông
Lê Văn Truyền dịch
After the fireworks,
the spectators departed:
how vast and dark the sky!
Masaoka Shiki (1867-1902), Michael R. Burch phỏng dịch
Sau màn pháo hoa
mọi người rời xa
bầu trời đen mênh mang
Lê Văn Truyền dịch
Such a small child
sent to become a priest:
frigid Siberia!
Masaoka Shiki (1867-1902), Michael R. Burch phỏng dịch
Như chú tiểu đồng
thụ giáo đi tu
Siberi lạnh lẽo
Lê Văn Truyền dịch
We cannot see the moon
and yet the waves still rise
Masaoka Shiki, Michael R. Burch phỏng dịch
Không thể thấy trăng
những con sóng vẫn trào dâng
Lê Văn Truyền dịch
The first morning of autumn:
the mirror I investigate
reflects my father’s face
Masaoka Shiki (1867-1902), Michael R. Burch phỏng dịch
Buổi sáng đầu Thu
trong gương tôi soi
cha tôi hiện bóng
Lê Văn Truyền dịch
Wild geese pass
leaving the emptiness of heaven
revealed
Takaha Shugyo, Michael R. Burch phỏng dịch
Đàn ngỗng trời bay qua
để lại trống vắng
trên bầu trời bao la
Lê Văn Truyền dịch
Silently observing
the bottomless mountain lake:
water lilies
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Lẳng lặng ngắm nhìn
mặt hồ không đáy trên núi:
những bông hoa súng
Lê Văn Truyền dịch
Cranes
flapping ceaselessly
test the sky’s upper limits
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Những con sếu
vỗ cánh không ngừng
thách thức trời cao
Lê Văn Truyền dịch
Falling snowflakes’
glitter
tinsels the sea
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Những bông tuyết rơi
lấp lánh
trang hoàng biển xanh
Lê Văn Truyền dịch
Blizzards here on earth,
blizzards of stars
in the sky
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Dưới mặt đất bão tuyết
trên bầu trời
bão sao băng
Lê Văn Truyền dịch
Completely encircled
in emerald:
the glittering swamp!
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Ngọc lục bảo bao quanh
đầm lầy lấp lánh
Lê Văn Truyền dịch
The new calendar!
as if tomorrow
is assured …
Inahata Teiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Quyển lịch mới
như nói cùng ta
ngày mai có gì chắc chắn …
Lê Văn Truyền dịch
Ah butterfly,
what dreams do you ply
with your beautiful wings?
Kaga no Chiyo (1703-1775), Michael R. Burch phỏng dịch
Ôi, con bướm miệt mài
dệt giấc mơ nào
với đôi cánh đẹp
Lê Văn Truyền dịch
Because morning glories
hold my well-bucket (cái gầu múc nước giếng) hostage
I go begging for water
Kaga no Chiyo (1703-1775), Michael R. Burch phỏng dịch
Bận buổi cầu kinh sáng
không đụng đến cái gầu
tôi đi xin nước
Lê Văn Truyền dịch
Spring
stirs the clouds
in the sky’s teabowl
Kikusha-ni, Michael R. Burch phỏng dịch
Mùa xuân
lay động đám mây
bầu trời trong tách trà
Lê Văn Truyền dịch
Tonight I saw
how the peony crumples
in the fire’s embers
Katoh Shuhson, Michael R. Burch phỏng dịch
Đêm nay tôi thấy
cánh mẫu đơn nhàu nhĩ
trong tro tàn lò sưởi
Lê Văn Truyền dịch
It fills me with anger,
this moon; it fills me
and makes me whole
Takeshita Shizunojo, Michael R. Burch phỏng dịch
Vầng trăng làm tôi giận dữ
cũng vầng trăng này
đem lại bình an
Lê Văn Truyền dịch
War
stood at the end of the hall
in the long shadows
Watanabe Hakusen, Michael R. Burch phỏng dịch
Chiến tranh
đứng ở cuối đại sảnh
trong bóng tối
Lê Văn Truyền dịch
Because he is slow to wrath,
I tackle him, then wring his neck
in the long grass
Shimazu Ryoh, Michael R. Burch phỏng dịch
Anh không hay cáu
tôi tóm và đè cổ anh
xuống thảm cỏ xanh
Lê Văn Truyền dịch
Pale mountain sky:
cherry petals play
as they tumble earthward
Kusama Tokihiko, Michael R. Burch phỏng dịch
Trên núi trời nhợt nhạt
những cánh hoa đào bay
rối tung mặt đất
Lê Văn Truyền dịch
The frozen moon,
the frozen lake:
two oval mirrors reflecting each other.
Hashimoto Takako, Michael R. Burch phỏng dịch
Vầng trăng đóng băng
mặt hồ đóng băng
hai tấm gương trái xoan phản chiếu
Lê Văn Truyền dịch
The bitter winter wind
ends here
with the frozen sea
Ikenishi Gonsui, Michael R. Burch phỏng dịch
Gió đông lạnh buốt
ngừng thổi nơi đây
biển xanh băng giá
Lê Văn Truyền dịch
Oh, bitter winter wind,
why bellow so
when there’s no leaves to fell?
Natsume Sôseki, Michael R. Burch phỏng dịch
Hỡi gió buốt mùa đông
cây không còn lá
gào thét làm chi?
Lê Văn Truyền dịch
Winter waves
roil
their own shadows
Tominaga Fusei, Michael R. Burch phỏng dịch
Biển mùa đông
khuấy đục
đầu sóng
Lê Văn Truyền dịch
No sky,
no land:
just snow eternally falling …
Kajiwara Hashin, Michael R. Burch phỏng dịch
Không bầu trời
không mặt đất
tuyết không ngừng rơi
Lê Văn Truyền dịch
Along with spring leaves
my child’s teeth
take root, blossom
Nakamura Kusâto, Michael R. Burch phỏng dịch
Cùng với cây lá
răng sữa con tôi bén rễ
mầm xuân nẩy chồi
Lê Văn Truyền dịch
Stillness:
a single chestnut leaf glides
on brilliant water
Ryuin, Michael R. Burch phỏng dịch
Tĩnh lặng:
một chiếc lá dẻ
lướt trên mặt nước
Lê Văn Truyền dịch
As thunder recedes
alone tree stands illuminated in sunlight:
applauded by cicadas
Masaoka Shiki, Michael R. Burch phỏng dịch
Sấm sét tan rồi
cây trơ trọi dưới ánh mặt trời
ve sầu hòa ca
Lê Văn Truyền dịch
The snake slipped away
but his eyes, having held mine,
still stare in the grass
Kyoshi Takahama, Michael R. Burch phỏng dịch
Con rắn trườn trong cỏ
đôi mắt chằm chằm
làm tôi bất động
Lê Văn Truyền dịch
Girls gather sprouts of rice:
reflections of the water flicker
on the backs of their hats
Kyoshi Takkahama, Michael R. Burch phỏng dịch
Những cô gái gieo mạ
ánh nước lung linh
đằng sau chiếc nón
Lê Văn Truyền dịch
Murmurs follow the hay cart
this blossoming summer day
Ippekiro Nakatsuka, Michael R. Burch phỏng dịch
Lọc cọc xe ngựa thồ cỏ khô
trong ngày hè hoa nở
Lê Văn Truyền dịch
The wet nurse
paused to consider a bucket of sea urchins
then walked away
Ippekiro Nakatsuka, Michael R. Burch phỏng dịch
Cô nhũ mẫu ướt đẫm
dừng chân ngắm đám nhím biển
rồi cất bước đi
Lê Văn Truyền dịch
May I be with my mother
wearing her summer kimono
by the morning window
Ippekiro Nakatsuka, Michael R. Burch phỏng dịch
Ước được cùng mẹ
mặc áo kimono
bên cửa sổ buổi sáng mùa hè
Lê Văn Truyền dịch
The hands of a woman exist
to remove the insides of the spring cuttlefish
Sekitei Hara, Michael R. Burch phỏng dịch
Đôi tay người đàn bà
bóc nội tạng
con mực mùa Xuân
Lê Văn Truyền dịch
The moon
hovering above the snow-capped mountains
rained down hailstones
Sekitei Hara, Michael R. Burch phỏng dịch
Chị Hằng
trôi trên đỉnh núi tuyết
mưa đá tuôn
Lê Văn Truyền dịch
Oh, dreamlike winter butterfly:
a puff of white snow
cresting mountains
Kakio Tomizawa, Michael R. Burch phỏng dịch
Chú bướm mùa đông đẹp như mơ
nhúm bông tuyết trắng
đồi núi nhấp nhô
Lê Văn Truyền dịch
Spring snow
cascades over fences
in white waves
Suju Takano, Michael R. Burch phỏng dịch
Bông tuyết mùa Xuân
đọng trên hàng rào
những con sóng trắng
Lê Văn Truyền dịch
Khương Thượng, Hà Thành
Mùa Xuân 2018
Lê Văn Truyền
TÓM TẮT TIỂU SỬ
MICHAEL R. BURCH
(theo WIKIPEDIA)
Michael R. Burch (sinh ngày 19-2.1958) là giám đốc một công ty công nghệ thông tin ở Hoa Kỳ. Ông đồng thời là nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và nhà biên tập, sống ở Nashville, bang Tennessee.
Ông còn là một nhà hoạt động vì hòa bình, là tác giả của sáng kiến hòa bình Burch-Elberry được mạng Diễn Đàn Quốc Gia về Liên Kết Tiến Bộ của Ấn Độ công bố. Ông cũng là nhà hoạt động tích cực cho trường phái New Formalist (Tân Hình Thức) và Neo-Romanticism (Tân Lãng Mạn). Ông đã công bố những bài thơ hay nhất trên trang mạng thơ The HyperTexts xuất hiện trong suốt hai thập kỷ qua và theo đánh giá của Google đã có hơn hai triệu lượt truy cập kể từ năm 2010. Thơ và truyện ngắn của Burch đã được đăng trên các tạp chí: TIME, USA Today, Writer Digest, Writer’s Journal, Writer’s Gazette, The Lyric, Poet Love … và trên hàng trăm tạp chí thơ ca khác. Ông phụ trách một cột báo hàng tuần trên tờ Nashville’s City Paper trong ba năm cho đến khi chuyên mục này ngừng xuất hiện vào năm 2013. Ông cũng dịch thơ từ tạp chí Old English và các ngôn ngữ khác ra tiếng Anh hiện đại. Burch đã dịch thơ của nhiều nhà thơ trong đó có Basho, Bertolt Brecht, Robert Burns, William Dunbar, Allama Iqbal, Ono no Komachi, Miklós Radnóti, Rainer Maria Rilke, Reneé Vivien và Sappho …
Michael R. Burch đã đạt 5 giải thưởng “Pushcart Prize” từ các nhà xuất bản The Aurorean, Romantics Quarterly, The Raintown Review, Trinacria và Victorian Violet Press. Tác phẩm “Ordinary Love” của ông được giải thưởng thơ “Algernon Charles Swinburne Poetry Award”, đồng thời ông cũng đạt 6 giải thưởng các cuộc thi thơ và 35 giải thưởng các cuộc thi văn học.
Ông kết hôn với ca sỹ Elizabeth Harris Burch và có người con trai Jeremy Michael Burch là ca sỹ, nhạc sỹ và diễn viên.