
Anh Ban’ya Natsuishi đến Việt Nam khi được mời dự Liên hoan thơ Châu Á – Thái Bình Dương năm 2012. Qua anh Ban’ya, tôi được biết Việt Nam có nhiều người thích Haikư. Điều đó khiến tôi rất ngạc nhiên nhưng khi tạp chí Haikư thế giới số 9 năm 2013 và số 10 năm 2014 liên tiếp đều có đăng thơ Haikư và bình luận của các bạn Việt Nam tôi mới thực sự hiểu rằng các bạn rất yêu thích hình thức thơ Haikư và muốn hiểu nó. Tôi không biết ở Việt Nam có bao nhiêu người sáng tác thơ Haikư nhưng tôi biết rằng số lượng đó đang tăng lên. Hiện nay có lẽ số nam giới nhiều hơn nhưng cũng như ở Nhật Bản số phụ nữ thích Haikư cũng tăng nhanh. Thơ Haikư là loại thơ như vậy.
Hôm nay, tôi muốn nói về phụ nữ Nhật Bản say mê thơ Haikư như thế nào.
Cơ hội để cho nhiều phụ nữ Nhật Bản sáng tác thơ Haikư có thể là bởi cuộc tập hợp thơ Haikư do nữ giới sáng tác có tên gọi “Tạp ngâm nơi nhà bếp” do tạp chí “Hototogisu” (số tháng 10 năm 1916) phát động, lúc đó do Takahama Kyoshi làm chủ bút. “Tạp ngâm nơi nhà bếp” tức là nói về những câu Haikư có chủ đề xung quanh bếp núc, gia đình. Ví dụ như cái chảo, cái thớt, con dao, con mèo, con chó, trẻ con… Thế là những người phụ nữ cũng sáng tác những câu Haikư mà cho đến lúc đó chủ yếu do nam giới sáng tác.
Nhưng chính xác việc khuyến khích phụ nữ chú ý đến Haikư không phải là Takahama Kyoshi. Mà trước ông 300 năm, vào thời Edo đã xuất hiện nữ giới sáng tác Haikư, vào thời điểm Matsuo Basho sáng lập loại Haikư có tính văn học, nghệ thuật cao gọi là Shofu (trường phái Haikai Basho). Sau khi Basho mất thì các đệ tử của ông tiếp tục quảng bá trường phái thơ Haikư này và nữ giới cũng tham gia vào các buổi sáng tác Haikư, ngay tại gia đình của mình.
Haikư ra đời cách đây khoảng 400 năm. Phụ nữ đã sáng tác Haikư thế nào và đặc điểm của Haikư do phụ nữ sáng tác có gì đặc biệt? Đặc điểm lớn nhất của dòng thơ Haikư Phụ nữ là họ sáng tác Haikư bằng trực cảm, trực giác. Những cái họ nhìn thấy, cảm thấy thì phụ nữ đưa thẳng vào thơ.
雪の朝二の字二の字の下駄の跡
(ゆきのあさ / にのじにのじの / げたのあと)
Tuyết buổi sáng / dấu guốc in / chữ nhị chữ nhị
(Densutejo, 1633-1698)
負ふた子に髪なぶらるる 暑さかな
(おうたこに / かみなぶらるる / あつさかな)
Lưng cõng em / đầu tóc rối / nóng hôi hổi
(Shiba Sonome, 1664-1726)
花衣脱ぐやまつはる紐いろいろ
(はなごろも / ぬぐやまつはる / ひもいろいろ)
Áo ngắm hoa / cởi ra / lắm thứ giây chằng
(Sugita Hisajo, 1890-1946)
ままごとの/飯もおさいも/土筆かな
(ままごとのめしもおさいもつくしかな)
Chơi đồ hàng / có cơm có rau / cả Tsukushi nữa nhé
(Hoshino Tatsuko, 1903-1984)
Các bà Densutejo và Shiba Sonome ở thời Eđo, các bà Sugita Hisajo và Hoshino Tatsuko ở thời Minh Trị.
Một buổi sáng tuyết rơi dày, không biết dấu guốc gỗ của mình đi hay của người khác mà in trên tuyết trắng. Nhìn thấy dấu guốc đó, cô bé Densutejo 6 tuổi rất trực cảm, với vốn chữ Hán mới học được cô buột miệng đọc thành thơ với nhịp điệu “chữ nhị, chữ nhị”. Còn Shiba Sonome cũng rất thành thực khi bật ra câu thể hiện cái bức bối, nóng nực khi địu em trên lưng, em nghịch tóc chị giữa cái nóng thiêu đốt giữa mùa hè nên chị cảm thấy “nóng hôi hổi”.
Hai trăm năm sau, vẫn cái trực giác đó Sugita Hisajo khi đi lễ ngắm hoa (Hanami) về cởi bộ Kimono mặc khi dự lễ, những dây quấn quanh áo rơi xuống chân cô “lằng nhằng”, đẹp thì có đẹp nhưng nó trói buộc làm sao! Ta như thấy hình ảnh cô gái Nhật Bản đang rối bời trong sự nhằng nhịt dây trói.
Hoshino Tatsuko thì tả lại cảnh em bé gái (hay bản thân) chơi đồ hàng gây cho ta cảm xúc của em khi chơi rất thật.
Dù rằng miêu tả hiện tượng cụ thể trước mắt nhưng ta thấy được sự phát triển sau này của hiện tượng đó.
Xin giới thiệu thêm về trực cảm đó của các Haijin nữ Nhật Bản:
いなづまの裾をぬらすや水の上
(Inazuma no suso wo nurasuya mizunoue)
Chớp quẹt / ngang gấu váy / sáng bừngmặt nước
(Kaga Chiyojo, 1703-1775)
落鮎の日に日に水の恐ろしき
(おちあゆや ひにひにみずの おそろしき)
(ochiayuya / hinihinimizuno / osorosiki)
Cá Trác xuôi sông / ngày ngày / sợ nước
(Kaga Chiyojo)
奥底の知れぬ寒さや海の音
(おくそこの しれぬさむさや うみのおと)
Cái lạnh sâu / không thấy đáy / tiếng biển
(Kasen, 1716-1777)
炎天下おのが影より羽音して
(えんてんか・おのがかげより・はおとして)
Dưới nắng lửa / từ bóng mình / nghe cánh vỗ
(Kamakura Sayumi, 1953-)
女身とは光をはじく岬かな
(によしんとは ひかりをはじく みさきかな)
(Nyoshin towa / hikari o hajiku / misaki kana)
Thân gái trụi trần / sáng bừng / đất mũi
(Kamakura Sayumi)
Kaga Chiyojo và Kasen là những phụ nữ thời Edo. Kamakura Sayumi là phụ nữ hiện đại sau hơn 200 năm. Trước hết, ta nói về câu của Chiyojo. Đầu tia chớp ta nhìn thấy ở gấu váy rồi reo vui trên mặt nước – sự tưởng tượng phong phú này thật đáng ngạc nhiên. Kagami Shikou – một đệ tử của Basho đã tặng bà một lời bình như sau: “một người kỳ dị có cái đầu nổi tiếng”, tôi rất tán thành. Trong câu “cá Trác (ayu) xuôi sông” mùa hè, nước sông nơi ta có thể thả chân xuống và bơi lội, đến mùa thu thì dòng nước đó trở nên lạnh lẽo và đen tối, xa lạ với con người. Sự biến hóa đó thật đáng sợ. Con cá Trác đã đẻ trứng xong thấy dòng sông thật đáng sợ, thân thể nó rã rời trôi theo dòng nước. Kiếp người cũng đen tối như vậy. Câu “cái lạnh khôn cùng” của Kasen không những chỉ nói về thân thể của người đọc nó mà ta cảm thấy như bị hút vào cái lạnh sâu xa, cái đáy biển sâu hút. Đó là sự đau đớn xót xa của cuộc sống.
Còn câu thơ của Sayumi – là người của thời hiện đại, thì dưới cái nắng gay gắt không khoan nhượng của mặt trời mà nghe thấy tiếng cánh vỗ của chim từ bóng mình đang đứng, cảm giác kỳ lạ như vậy làm cho ta có thể cảm thụ được một không gian khác, thậm chí ta muốn bay vượt không gian thông thường. Đến câu “thân gái” thì cho ta thấy thân thể người con gái, có lẽ là trần trụi, đang đứng trơ trọi hướng ra đất mũi mà bật ra ánh sáng. Một bài ca nữ tính làm sống dậy cảm tính của chính tác gia nữ, một cái gì đó rất Sayumi – là ánh sáng bật lên ở đất mũi nơi trông ra biển.
Điều muốn nói về mấy câu tiêu biểu của 3 tác giả nữ này là Haikư có ngôn ngữ đầy âm điệu biến hóa có ngắt quãng mạnh mẽ bằng cảm tính dịu dàng độc đáo, nhìn vào tâm hồn mình đang sống. Con người ta chừng nào còn sống thì hàng ngày đều thể hiện tình cảm như người ta nói là “hỉ nộ ai lạc”, những tình cảm đó phụ nữ cũng mang vào trong Haikư.
散花の下にめでたき髑髏かな
(ちるはなの もとにめでたき どくろかな)
Kìa sọ trắng / vui mừng / dưới cánh hoa rơi
(Emoto Seifu, 1732-1814)
短夜や乳ぜり啼く児を須可捨焉乎
(たんややちちぜり なくこを すてつちまおか)
Trong đêm / tiếng trẻ khát sữa / muốn quẳng nó đi
(Takeshita Shidunojo, 1887-1951)
雪はげし抱かれて息のつまりしこと
(ゆきはげし いだかかれて いきのつまりしこと)
Trong tuyết rơi / ai ôm tôi chặt / nghẹt hơi
(Hashimoto Takako, 1899-1963)
夏瘦せて嫌ひなものは嫌ひなり
(なつやせて きらひなものは きらひなり)
Mùa hè gầy yếu / cái gì ghét / là ghét
(Mitsuhashi Takajo, 1899-1972)
この樹登らば鬼女となるべし夕紅葉
(このきとうらば きじょとなるべし ゆうこうよう)
Trèo lên cây / sẽ thành nữ quái / lá đỏ ráng chiều
(Mitsuhashi Takajo)
巻貝死すこの世の夢を巻きのこし
Con ốc chết / cuốn theo giấc mơ / thế gian
(Mitsuhashi Takajo)
Các phụ nữ Emoto Seifu ở thời Edo, Takeshita Jitsunojo ở vào thời Minh Trị, Hashimoto Takako và MitsuhashiÂÂÂ Takajo sống qua thời Minh Trị, Đại Chính, Chiêu Hòa. Chúng ta xem thơ của từng người nhé. Trước hết câu của chị Seifu phỏng theo ý câu Waka của Saigyo “Nếu được nguyện cầu, tôi muốn chết dưới bóng hoa Anh Đào, vào lúc trăng rằm tháng 2 (tháng cỏ cây thay áo mới)”. Cái sọ trơ xương của người chết (dokuro) mà các cánh hoa Anh Đào rơi phủ lên thì đẹp tuyệt vời! Cái dokuro này của Saigyo cũng như vậy. Ta thấy câu thơ mang cảnh sắc chân thật không ngụy tạo vượt lên sự hỉ nộ ai lạc thông thường.
Sau Seifu hơn 100 năm thì Jitsunojo nói gì trong thơ? Chị sáng tác câu thơ một cách thật thà đến mức kinh ngạc rằng “Trong đêm đứa trẻ khát sữa khóc đến mức muốn quăng nó đi lần nữa”. Trong Haikư hiện lên tình cảm không giả dối của người phụ nữ ôm đứa con đỏ hỏn. Nên nhớ ở đây Jitsunojo dù có biểu hiện tình cảm nhất thời đến đâu chăng nữa vẫn làm sống lại yếu tố Hán văn trong văn học.
Takako thì ca ngợi tình yêu vợ chồng một cách cuồng nhiệt từ góc độ của người phụ nữ, nó chất chồng nỗi nhớ trong một lần tuyết rơi dày đặc chị được chồng ôm chặt nồng nàn. Mặt khác nó biểu hiện nữ tính cao độ, thể hiện tình yêu mình trong Haikư, hướng sự yêu cuồng nhiệt đó vào bản thân mình.
Còn Takajo thì sao. Đó là lời tuyên ngôn của phái nữ, dù yếu đuối đến đâu chăng nữa, đã chán ghét thì phải nói là chán ghét.
Ta cũng thấy tình cảm mãnh liệt khi suy nghĩ có thể hóa thân thành nữ quái dưới màu đỏ của cây Momiji chiều tối.
Trong câu “con ốc” bà đã nghĩ đến cái chết, hướng tình cảm của mình vào việc còn một trải nghiệm chưa biết trong thế giới này.
Từ nay dòng thơ phụ nữ Nhật Bản sẽ đi về đâu? Sẽ sáng tác về cái gì thì hay? Vẫn còn bỏ ngỏ câu trả lời. Như Kaga Chiyojo thời Edo đã sống và làm như vậy, Haikư Nhật Bản đã gửi tín hiệu đi khắp thế giới và nó đã gắn với Haikư thế giới. Từ đó, tôi cũng suy nghĩ và hỏi lòng mình: dòng thơ Haikư phụ nữ phải sáng tác như thế nào?
Kamakura Sayumi
Người dịch và chuyển ngữ thơ: Lê Thị Bình