Xin giới thiệu với bạn đọc 30 phiến khúc haiku (kèm Lời nói đầu) trong tập thơ 9 ngữ của Ban’ya Natsuishi – Nhà hát miền sa mạc (Le théâtre du désert, Nxb. Repro India, 2017). Do điều kiện ấn loát có hạn, chúng tôi chỉ xin đăng kèm bản dịch thơ tiếng Pháp.
Lời nói đầu:
Tháng 6 năm 2016, Sayumi Kamakura và tôi đến Maroc lần đầu tiên. Chúng tôi lưu lại Vương quốc Bắc Phi này 3 tuần lễ, tham dự Đại hội Haiku Maroc lần thứ II tại Oujda. Sự kiện quốc tế này vinh danh Mohammed Bennis – nhà thơ nước này – là phần quan trọng của Diễn đàn Nghệ thuật quốc tế Assilah điều hành bởi Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mohamed Benaissa. Chúng tôi cũng đã dự cuộc Tọa đàm Haiku do Trung tâm giáo dục Văn hóa quốc tế ở Rabat tổ chức.
Trong thời gian lưu tại đây, nhờ nhiệt tình của ngài Sameh Derouich – Chủ tịch Hiệp hội Gafait đã tạo điều kiện cho tôi xuất bản hai tập Haiku 30 khúc haiku và Giáo hoàng bay. Những nỗ lực tưởng như vô vọng ấy – cùng với sự hợp tác quý báu của các nhà thơ Haiku Ả Rập – nhất là Maroc – với các haijin Nhật Bản và châu Âu đã thành công tốt đẹp. Cũng nhân dịp này chúng tôi đã may mắn được đi ÂÂ thăm nhiều thành phố và danh thắng vùng duyên hải – những miền cực nóng như ốc đảo Gafait và Marrakech nhiệt độ 49oC – những nơi mà chúng tôi tưởng chừng có lúc sắp chết vì… khát! Tại những miền cực nóng đó, lũ mèo hoang gày guộc như bị gió lùa, tản mác khắp nơi. Rồi xương rồng. Rồi những ngôi mộ xám như cũng có quyền năng trên mặt đất. Giữa sa mạc, ngay cả cỏ cũng phát ra ánh sáng. Mặc dù nắng nóng ngoài sức tưởng tượng, người ta đã dựng tượng một con ếch đá khổng lồ để biểu thị tình yêu và lòng kính trọng đối với khúc Haiku xưa nổi tiếng của Basho.
Haiku là hạt nhân thi ca bằng lời của tinh thần nóng bỏng của chúng tôi. Tinh thần ấy đã lan tỏa trên những ô hình tổ ong tạc trên vòm Trường học Ben Youssef ở khu Tây thành phố Marrakech như bị thiêu đốt dưới mặt trời. Những hình tổ ong ấy biểu trưng cho năng lượng vĩnh cửu toàn năng của cuộc sống trên quả đất này.
Và trên bờ Đại Tây Dương, những bức tường trắng tinh khôi của thành phố Assilah vừa như là tất cả, vừa như không có gì – như những lời mời chào các sứ giả thiên đình hạ cố.
Ba mươi khúc Haiku 9 ngữ này gợi lại những cảm tưởng về cuộc hành trình tốt đẹp của chúng tôi đến Maroc. Được vậy, xin đa tạ các vị dịch giả tuyệt vời – những bạn quý của chúng tôi. Và ba mươi bức haiga của Kuniharu Shimizu – không phải để minh họa, mà cốt mang đến một cách nhìn mới – khác những khúc thơ – với những quan điểm bất ngờ…
Ban’ya Natsuishi 2017
Haiku
1- Un chat dans la casbah / plus léger / que le vent atlantique
Một con mèo trong cung điện
nhẹ hơn cả
gió Đại tây dương
2- Mille adjectifs / arrivent en volant / sur ce mur purement blanc
Một ngàn tính từ
vừa bay đến
trên bức tường trắng tinh khôi này
3- Pour un grand voyageur / le nuage est la noix / la noix est le nuage
Với nhà đại lữ hành
đám mây là hạnh nhân[1]
hạnh nhân là đám mây
4- Mille ans de la médina / soie planante / et un chat dormant
Nghìn năm trong khu Ả Rập
một giải lụa lượn lờ
và một con mèo đang ngủ
5- Un homme maigre / il vend un miroir / pour la bonne chance
Một người đàn ông gầy gò
bán chiếc gương soi
cốt để cầu may
6- La porte marocaine / ne se ferme pas facilement / ténèbres ondulantes
Cánh cửa Maroc này
không tự khép dễ dàng đâu
bao bóng tối lượn lờ
7- La pente bleue / ou le tombeau brun / terminus d’un grand voyage
Con đường dốc xanh
hay ngôi mộ nâu
điểm cuối một chuyến lữ hành dài
8- Les cactus et les tombeaux / rivalisent en nombre / vallée de chaleur
Xương rồng và mộ
đua nhau mọc
thung lũng nóng bỏng này
9- Il y a des éclairs à Marrakech / un vieillard / regarde autre chose
Nhiều chớp lóe ở Marrakech
có một cụ già
lại nhìn đi nơi khác
10- Crinière de nuages pluvieux / passe sur Marrakech / en un clin d’oeil
Một giải mây mưa
bay qua Marrakech
chỉ trong chớp mắt
11-Â Un homme de sable / sur un désert de sable / loin du paradis
Một người cát
trên bãi sa mạc
cách xa thiên đường
12- Un cobra brillant / tombe / sur le professeur de géométrie
Một con rắn hổ mang sáng loáng
rơi
trúng ông thầy hình học
13- Le Paradis / c’est le temps stagnant lui-même / au coeur de la médina
Thiên đường
là thời gian tự ngưng đọng
ngay giữa lòng khu Ả Rập
14- Temple pour les mathématiques / on voit le pays natal / sur ce mur blanc
Ngôi đền toán học
ta gặp lại cố hương
trên bức tường màu trắng
15- Dans un coin de la médina / à Casablanca / toute la lumière pourrit
Trong một góc khu Ả Rập
ở Casablanca
tất cả ánh sáng lụi tàn
16- Un petit moment / comme les flèches de lumière / les herbes du désert
Chỉ trong chốc lát
cỏ sa mạc
rực lên như những mũi tên ánh sáng
17- Noyée dans le jus / une abeille s’envole / oasis
Ngập ngụa trong nhụy hoa
một con ong vụt bay
ốc đảo
18- La mort sourit / sous un rectangle / au bord de la mer
Thần Chết mỉm cười
dưới một hình chữ nhật
bên bờ biển xanh
19- La chaleur est la gravité / un grain de poussière / infini
Nhiệt là trọng trường
một hạt bụi
vô biên
20- Une rose des voix / au fond de la nuit / pour les invisibles
Một bông hồng của tiếng nói
giữa lòng đêm
cho những thể vô hình
21- J’ai soif / l’autre monde / n’existe pas
Tôi đang khát đây
thế giới bên kia
làm gì có thật
22- Midi / le Destin déguisé en mendiant marche / dans les souks
Trưa
thần Số mệnh cải trang thành hành khất
đi trong các cửa hàng
23- L’eau est née / vous êtes né et le haiku est né / sur cette pente
Nước sinh ra
bạn và khúc haiku – đều sinh ra
từ trên cái dốc này
24- Le cactus au pied / les roses aux deux mains / le palmier sur la tête
Khóm xương rồng dưới chân
hoa hồng trong hai tay
cây cọ đội trên đầu
25- Le dos d’une grenouille / ajouté à la pente / de l’oasis
Lưng một con ếch
tạc thêm vào con dốc
của ốc đảo này
26- Deux samourais / abandonnent toutes idées / au bord de l’Atlantique
Có 2 samurai
từ bỏ mọi ý nghĩ
bên bờ Đại tây dương
27- On voit les constellations / on voit le nid d’abeilles / ce plafond en pierres
Ta thấy những chòm sao
cả chiếc tổ ong
trên trần nhà bằng đá kia
28- Le théâtre du désert / pas d’argent / pour acheter l’âme
Nhà hát của sa mạc
không có tiền
để mua linh hồn
29- Le nid d’abeilles est la mère / de la géométrie / l’ennemi du néant
Tổ ong là mẹ
của môn hình học
kẻ thù của hư không
30- Mille feuilles / de désert / la mer est si loin
Nghìn lớp sa mạc
xếp chồng nhau
biển cả xa vời
Ngõ Bằng lăng
Đ. N. H
[1] Noix: quả óc chó, ở đây chúng tôi xin dịch thoát.