Giọt sương lấp lánh- Nguyễn Thánh Ngã

alt

alt

Đọc Về thôi – tập thơ haiku của Lương Thị Đậm – NXB Văn Học 2017

Tôi đang có cuộc “di trú” về phương Nam. Mỏi cánh nên “mỏi” cả thơ. Đóng lại “cái sự đọc”. Nhưng như một định luật, đóng chính là lúc mở ra. Được quà của Bác Đinh Nhật Hạnh từ Hà Nội gởi vào, liền có tiếng gõ cửa. Chợt nhớ: “Hãy gõ, cửa sẽ mở” trong Kinh Thánh, tôi liền mở. Nhưng mở mà như không mở với “Về thôi” của Lương Thị Đậm.

Về thôi, thì còn gì để mở nữa! Nhưng đúng lúc không còn gì, chợt lóe lên tia sáng. Thơ haiku không dễ đọc, nếu không có tia sáng (cuối đường hầm). Nếu “trái đất nghiêng”, thì “bờ sông níu gió” cho cân bằng. Ấy là não trạng thơ haiku. Giải quyết được tâm thế này, tôi mới lần mở trang thơ đầu tiên:

Giọt sương lấp lánh

Trăng soi đầu cành

Mầm xanh

(bài 1)

Mỗi ý niệm của tác giả là một giọt sương long lanh, được chưng cất từ “chiếc nồi đêm” khổng lồ. Ánh trăng chiếu vào lấp lánh. Ấy là một chu trình thanh lọc “tâm”, bắt nguồn từ vũ trụ. Nhờ năng lượng vũ trụ mà hạt mầm nẩy nở. Nếu nhìn về ngoại cảnh, thì bấy nhiêu thôi đủ gợi mở biết bao điều kỳ diệu trên trái đất chúng ta. Còn nội tâm là ánh trăng thanh tịnh, soi chiếu tràn đầy. Một mầm xanh nhân thiện vừa mọc lên!

Thế rồi 16 năm sau, “mầm xanh” ấy đã thành cây:

Sau lưng mùa hạ

Tiếng ve ngừng rơi

Phượng nghẹn lời

(bài 16)

Khoảng cách 16 bài có thể là 16 ngày đêm, hay 16 năm. Tôi cho là như thế, bởi tư duy thơ không đơn thuần được tính bằng ngày tháng. Có khi là những nếp nhăn trong võ não, được tính bằng hàng tỷ nơ-ron thần kinh, để được nhìn thấy chiếc “lưng mùa hạ”. Và phải vượt qua hàng tỷ tiếng ve rơi để nhận ra “cây phượng vĩ” của thời học trò áo trắng, cái lằn ranh lấp ló giữa thiên thần và ma quỷ. Vì thế, tôi tin rằng “phượng” chính là “quý ngữ” của Haiku Việt sau này, dù tác giả Lương Thị Đậm không hề có ý đó. (theo nhà nghiên cứu thơ haiku TS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như).

Và như một vô tình hữu ý, tôi đọc bài 51:

Ngày tình nhân

Hoa hồng

Người dưới mộ

Trải qua con số 50, người thơ đã “tri thiên mệnh”, đã nhìn thấy trọn vẹn cuộc luân chuyển. Ngày nở “hoa hồng” cũng là ngày trao sứ mệnh yêu thương. Điều nhà thơ muốn nói ở đây chính là “người dưới mộ”. Sinh tử là chuyện vô thường, nhưng hoa hồng được trao cho người dưới mộ làm bừng lên mối yêu thương da diết. Đó phải chăng là văn hóa phương Đông gặp gỡ văn hóa phương Tây? Người sống và người chết bình đẵng giữa Valentine lộng lẫy của tâm hồn…

Tôi lại lần thêm 20 năm nữa, con số 71 “cổ lai”:

Mẹ đọc câu Kiều

Hằn sâu ký ức

Tháng ngày xanh rêu

Mẹ đọc câu Kiều là hình ảnh đẹp, lưu giữ bức tranh về đời sống văn hóa xưa của người Việt. Có thể họ không cần lý giải truyện Kiều, nhưng cái hay đã “hằn sâu ký ức” trong lớp lớp thế hệ nối tiếp. Điều đó cho người đọc thấy rằng, từng dòng lục bát truyền thống đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu. Vậy thì haiku làm sao có thể thâm nhập? Tôi lại nhớ câu hát trong bài Tình xa của Trịnh Công Sơn:” Nhìn lại mình, đời đã xanh rêu”. “Tháng ngày xanh rêu” vì nước mưa lắng đọng, thấm dần…Thơ haiku chính là hạt mưa thấm dần ấy, cái hay của nó đã len vào tâm hồn người Việt…khiến lục bát và haiku luôn có nhau trong mối giao hòa, hàn gắn những cá thể gần lại hơn mà vẫn riêng biệt.

“Về thôi” là câu nói ngắn gọn, thâu tóm. Lương Thị Đậm đã có lý, khi dùng nó để lưu giữ những ký ức hằn sâu trong cõi nhân sinh. Cũng có thể dùng nó để diễn tả một trạng thái như một mệnh lệnh, hay một tán thán từ. Đặc biệt bài thơ “Về thôi” làm lay động bao tâm hồn, bởi câu cảm thán đầy trạng thái lại được dùng cho một không gian mở là “bờ sông” và “chân trời”:

Về thôi

Bờ sông níu gió

Chân trời níu mây

(bài 165)

Có chút gì đó vướng víu trong tứ thơ Trúc Thông: “bờ sông vẫn gió”. Nhưng không, hai tứ thơ độc lập. Vì như tôi đã nói, lục bát và haiku chơi khắng khít với nhau, nhưng vẫn là riêng biệt. Với Trúc Thông là cuộc từ biệt mẹ, với Lương Thị Đậm là chia tay một cuộc tình. Nếu thế thì “Về thôi” là một âm hưởng mạnh mẽ của người con gái “em phải về thôi, xa anh thôi” như trong “Chia tay hoàng hôn” của Thuận Yến vậy. Nhưng nghiệt thay, trong cái mạnh mẽ ấy lại chứa đựng biết bao yếu đuối, mà người con gái phải gánh chịu dưới sức nặng của sự cô đơn. Nhìn bờ sông, chỉ biết níu ngọn gió mà hỏi tin người thương, nhìn chân trời chỉ biết níu mây mà hỏi, thì đây:“Áo chàng đỏ tựa ráng pha/ Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”(Chinh phụ ngâm). Bài thơ vỏn vẹn chỉ có mây và gió, mà làm lay động bao hồn thơ, vì nó được làm bằng thế giới huyền ảo. Ở đây tính cá nhân được phát huy triệt để, để cho hàng tỷ tế bào bật run trong cảm giác mất mác, chia ly. Tác giả đã khéo léo sử dụng thủ pháp dịch chuyển, từ bờ sông ra tới chân trời, làm lan tỏa các xung động. Đó là sự thành công của Lương Thị Đậm trong bài thơ này.

Còn đây:

Cơn mưa trắng

Cuộc tình trắng

Tóc trắng

(bài 167)

Đập vào mắt người đọc là ba màu trắng khác nhau. Màu trắng thứ nhất bàng bạc phủ khắp trần gian. Nó là sự sống nhưng cũng là những gian truân, những thử thách khắc nghiệt của thời tiết mà phận người phải gánh chịu. Màu thứ hai là màu của “chầm chậm xe tang” đầy bi kịch.(bài 88). Màu thứ ba là màu của sự lão hóa, xế chiều. Ba màu ấy có đủ trong lộ trình “tứ khổ” của nhà Phật, khác nhau nhưng cùng một con đường dẫn đến “khổ đế”, độc giả tha hồ chiêm nghiệm bản thân…

Về thôi là tác phẩm dày đặc sự kết hợp giữa con người và vũ trụ:

Mời hai giờ đêm

Vọng tiếng còi tàu

Trăng khuya đơn lạnh

(168)

Một vì sao rơi

Khoảng không vũ trụ

Vệt sáng cuối trời

(169)

Trải mây

Lót giấc buồn

Đợi

(193)

Và cũng đầy những khai phá, kiếm tìm:

Hoa trinh nữ

Khép mi

Lời thầm thì

(201)

Tìm nhau

Đi lạc

Đáy mắt sâu

(202)

Trái đất nghiêng

Thế giới phẳng

Tâm thiền

(203)

Đọc những trích dẫn trên, độc giả sẽ dễ dàng nhận ra thơ haiku Lương Thị Đậm rất đa dạng. Là một nhà thơ đã từng viết nhiều thể loại, tiếp xúc với haiku, tác giả đã kết hợp nhuần nhị hai yếu tố lục bát và haiku vào Haiku Việt với sự sáng tạo đầy năng lượng. Tuy nhiên, do tuân thủ nghiêm nhặt giới hạn của 5-7-5 mà một số bài, câu chữ chưa được bung ra, phá cách. Hy vọng trong những bước tiếp theo, nhà thơ Lương Thị Đậm sẽ cho ra mắt những tác phẩm mạnh mẽ hơn trong cách viết. Bởi tôi luôn tâm niệm rằng, người làm thơ haiku hãy để cho “trái chín rụng xuống trang giấy, chứ đừng hái ép”. Bình tĩnh trong sáng tác cũng là một đức tính của thơ haiku.

Dù sao tôi vẫn tin rằng: “Về thôi” là tập thơ haiku diễn tả tâm trạng của tác giả bằng nhiều cung bậc cảm xúc, thấm đẫm chất nhân văn. Tập thơ nhỏ, in không đẹp lắm, nhưng đã góp vào Haiku Việt một tiếng nói thầm lặng, giải phóng những trì trệ cũ, mở ra thế giới của giọt sương tinh khiết, lắng đọng, làm nên vẻ sáng trong huyền nhiệm cho buổi ban mai thơ…

Đà Lạt tháng 10. 2017

N.T.N

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt