LÊ VĂN TRUYỀN
GSTS
Nguyên Thứ trưởng bộ Y Tế
Hội viên HKV
Hội viên Hiệp hội Haiku Thế giới (WHA)
Ủy viên Biên tập Nội san HKV
Ba khúc haiku mùa hè
Ngôi nhà cũ
người bỏ đi
nhện dăng tơ khung cửa
The old deserted house
we left from without a word
the spriders still silently spread the coburb
Trong cuộc đời, có khi vì một lý do nào đó ta phải rời bỏ ngôi nhà cũ, ngôi nhà đã chứng kiến những ngày ta lớn lên và gắn bó với bao kỷ niệm vui buồn, để đến một nơi ở mới. Ta có thể mang theo những của cải quý giá, những vật dụng cần thiết nhưng không ai có thể mang theo hết được những kỷ niệm thân thương gắn liền với nơi ta đã lớn lên, đã sống. Ta có thể mang theo con mèo, con chó… những vật nuôi gắn bó với cuộc sống của ta nhưng không ai mang theo được tiếng thạch sùng tắc lưỡi đêm đêm trên trần nhà, tiếng dế rả rích dưới chân tường, tiếng những con mọt nghiến kẽo kẹt trong vách gỗ, và cả tiếng ễnh ương da diết gọi tình ngoài vườn trong những cơn mưa đêm hè… Và ta vô tâm bỏ lại những con nhện nhỏ bé, xấu xí vẫn lặng lẽ cần mẫn dệt tơ trên khung cửa sổ để bắt con ruồi, con muỗi mà nhiều khi những mạng nhện này đã làm ta rất bực mình khi dọn dẹp nhà cửa.
Rồi cho đến một ngày ta trở lại ngôi nhà lạnh lẽo, và lòng bỗng ấm lên khi thấy trong ngôi nhà trống rỗng, bất kể sáng tối, ngày đêm dù có ta hay không có ta ở đó, những con nhện nhỏ bé, xấu xí ấy vẫn chung thủy, kiên nhẫn, âm thầm dệt tơ trên khung cửa. Có phải ai ai trong tất cả chúng ta cũng đều có thể làm được toàn những việc thật lớn lao trong suốt cuộc đời? Chúng ta chỉ sống một cuộc đời thật hữu hạn với năng lực cũng thật hữu hạn. Nhưng xin đừng phiền muộn. Nếu ta để tâm đến những sinh vật như những chú côn trùng, bất cần về sự nhỏ bé, mong manh của chúng trên mặt đất, vẫn vô tư và cần mẫn làm công việc của mình, sống trọn vẹn cuộc sống của mình, ta bỗng ngộ ra rằng chỉ cần làm được những việc nhỏ bé để thấy mình đang được sống, đang tồn tại cũng đã là niềm hạnh phúc lớn lao mà Trời Đất ban cho ta rồi.
*
Chiếc quạt mo cau
âu yếm tấm thân tôi mệt mỏi
làn gió tuổi ấu thơ
The areca spathe fan
caressing my exhausted body
with the childhood wind
Cách nay mấy chục năm, đặc biệt trong thời chiến tranh, nhiều vùng quê miền Trung nắng như đổ lửa và người ta chỉ được hưởng làn gió mát lành từ những cánh đồng lúa, từ mảnh vườn xôn xao cây lá và từ tấm quạt mo cau. Những cây cau trong vườn cho ta những buồng cau, lễ vật thiêng liêng của những ngày giỗ, ngày Tết, và buồng cau cùng với lá trầu – lễ vật thiêng liêng của tình yêu và hôn nhân. Hoa cau rụng trắng bên thềm trong những đêm trăng sáng lan tỏa một làn hương nhẹ nhàng, thanh tao. Trong những ngày đói kém, đôi khi buồng hoa cau non được luộc lên thay rau xanh, ăn vào thấy ngọt ngọt, lâng lâng như có men say.
Thân cây cau già chết khô được xẻ làm đôi, khoét ruột để làm máng hứng nước mưa từ mái tranh vào những lu, chum đựng nước đầu chái nhà, cho ta những gáo nước mát lành giải cơn khát giữa trưa hè oi bức. Và tầu lá cau già, thỉnh thoảng đột ngột rụng, tạo một tiếng vang trong đêm thanh vắng như nhắc nhở sự hiện diện của quy luật tự nhiên “lá già phải rụng nhường chỗ cho lá non đâm chồi”. Sáng hôm sau, bà tôi lượm tầu lá cau, chặt lấy chiếc mo, cắt thành một tấm quạt, đem phơi ngoài sân nắng sau khi chặn bằng mấy hòn gạch cho tấm mo khỏi cong. Từ tay bà, chiếc quạt mo đã cho tôi làn gió mát thoang thoảng hương cau trong những buổi trưa hè đổ lửa, những đêm tháng năm, tháng sáu oi bức, ngột ngạt và những lúc làn da tôi nóng hừng hực, vầng trán hâm hấp mồ hôi vì những cơn sốt mà bà tôi thường gọi là sốt “vỡ da” của con trẻ. Thời kỳ kinh tế bao cấp, cả cơ quan ngồi chờ đến lượt mình được bán “cung cấp” một chiếc quạt “tai chuột” bé tí. Đêm đêm trong các căn nhà tập thể vừa đủ kê một chiếc giường đôi, nóng hừng hực như một lò lửa, bao bà mẹ trẻ thức ngủ chập chờn suốt đêm quạt chiếc quạt mo hoặc quạt nan cho những đứa con bé bỏng. Tay mỏi rã rời, lơ mơ trong cơn buồn ngủ ập vào đôi mi mắt, buông tay để rơi chiếc quạt. Như một phản ứng tự nhiên, người mẹ giật thột vơ lấy chiếc quạt và tiếp tục bao bọc cho con làn gió mát thấm đẫm tình mẫu tử nồng nàn. Trong làn gió mát của những chiếc quạt mo, quạt nan… những người mẹ gửi đến cho những đứa con thân yêu cả một tình yêu thương và sự hy sinh vô bờ bến. Bây giờ, chúng ta ngủ trong những căn phòng máy lạnh. Các công ty công nghệ hàng đầu đang nỗ lực quảng cáo để bán gió trời mát mẻ cho chúng ta qua những chiếc máy điều hòa nhiệt độ tân tiến. Để tạo làn không khí mát, hàng trăm triệu “cục nóng” máy lạnh đang trút sức nóng cho những kẻ không tiền. Khí làm lạnh của hàng trăm triệu chiếc máy lạnh đang phân bổ tai họa môi trường cho toàn Nhân Loại thông qua việc chọc thủng tầng “ô zôn”. Và Trái Đất, ngôi nhà chung của chúng ta, đang nóng dần lên, những dòng sông mẹ nuôi nấng chúng ta đang dần cạn kiệt hoặc nhiễm mặn. Xem ra luồng gió máy lạnh hiện đại thật là “phi nhân tính”.
Một buổi trưa hè năm nay, trong một làng nhỏ miền Trung, tôi thấy chiếc quạt mo lặng lẽ nằm trên chiếc chõng tre ngoài hiên nhà. Cầm chiếc quạt mo phe phẩy, một làn gió tuổi thơ bỗng ôm ấp tấm thân già cỗi của tôi và tim tôi bỗng tràn ngập một cảm xúc trẻ trung, thân quen khó nói nên lời.
*
Núm vung nồi đất cổ
núm vú mẹ ngàn đời
trẻ mân mê mỗi tối
The teat of clay pot cover
vietnamese mum nipples
babies finger every night
Thăm lò gốm trong một làng cổ miền Trung, ở đó người ta vẫn làm những vật dụng bằng đất nung: ba ông Táo để xếp thành cái bếp đun củi, đun rơm, chum vại đựng nước, bộ ấm chén uống trà… Nhưng nhiều nhất vẫn là những chiếc nồi đất đủ cỡ để nấu cơm, để kho cá… Nồi phải đi liền với vung. Ông cha ta vẫn nói “nồi nào vung nấy”, “nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo” như một lẽ công bằng và lẽ tương hợp tự nhiên muôn đời của Trời Đất. Nồi phải luôn luôn có vung, và vung phải luôn luôn có núm. Núm của những cái vung đất phải chăng là hình tượng chiếc núm vú của người phụ nữ Việt Nam. Có những núm vung nhỏ nhắn, xinh xinh như núm vú chũm cau của các em gái tuổi dậy thì. Có những núm vung đầy đặn, phồn thực như núm bầu sữa của những bà mẹ trẻ đầy sức sống. Và có những núm vung méo mó, teo tóp như núm của bộ ngực những bà mẹ nghèo tần tảo, tất tả suốt đời, rút hết ruột gan, máu thịt của mình chắt ra những giọt sữa nuôi cả bầy con khôn lớn để hiến dâng cho Đất Nước.
Tôi vẫn tự hỏi trong thời đại “công nghiệp hóa và hiện đại hóa” hiện nay, tại sao những người thợ gốm tài hoa Việt Nam không sáng tạo ra một “cơ cấu” đặc biệt nào đó cho cái vung để thuận tiện khi dùng mà từ hàng ngàn năm cho đến giờ, vẫn chỉ cặm cụi nặn cái núm cho những chiếc vung nồi đất? Chắc hẳn khi nặn những chiếc núm vung, người thợ gốm vẫn nhớ đến chiếc núm vú của mẹ mà tuổi ấu thơ được mân mê mỗi tối. Phải chăng là để mỗi khi sờ vào cái núm vung, mỗi chúng ta phải luôn nhớ ơn đôi núm vú và bầu sữa của những bà mẹ, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, suốt đời đã chăm bẵm, nuôi nấng ta khôn lớn thành người.
Lê Văn Truyền