Thầy- và những vị Thầy không lên lớp- Đinh Nhật Hạnh

alt

Không thầy,đố mầy làm nên

(Tục ngữ)

alt

Xin thành kính dâng tấm lòng biết ơn các Thầy đã từng lên lớp ,dắt dẫn chúng em từ buổi khai tâm -thuở còn để tóc trái đào.Nhớ sao những buổi đầu phóng học ,ngồi xổm màì son mòn cả mấy đầu ngón tay, viết bút tre trên lá chuối hoặc lên đồi hái quả mua chín về bóp nát làm mực màu tím thay vì ngòi bút hình lá trúc,lá tre bằng kim loại mạ những năm ngồi ghế gỗ lim bóng loáng trường Pháp –Việt Phủ Anh Sơn sau này.Người thầy khai tâm bọn tôi-những Đinh viết Tiệp, Nguyễn đình Ân, Nguyễn đình Huấn,Nguyễn Cảnh Công… là Cụ Đinh Trung Thành ,Cụ Lê văn Nuôi- những thầy giáo làng tự nguyện.Chính nhờ môi trường học gia đình sơ khai -nhưng chất lượng cao không ngờ đó- mà năm lên 10 tuổi chúng tôi đã ung dung đủ điểm xét tuyển vào thẳng lớp Hai (cours Préparatoire) đàng hoàng,không phải qua lớp I Đồng ấu (cours Enfantin) tại Trường Pháp-Việt duy nhất của Phủ Anh Sơn xưa rộng bát ngát mà sau CCRĐ chia thành 3 Huyện Đô Lương, Tân kỳ,Anh Sơn (mới).

Buổi ấy,nhà tôi ở Xóm Đá làng Vịnh Đức, chỉ cách Trường Phủ đúng 1.200m,dọc Quốc lộ số 7 lên tận Mường Xén, biên giới Việt-Lào.Đường rải đá xanh phẳng lỳ .Hàng tháng có định kỳ xe Hồ lô bánh sắt to đùng chạy bằng than đá của Nhà Lục lộ trên Phủ cần cù, lăn bánh chậm rãi tu sửa quốc lộ tinh tươm. Thuở ấy,nghỉ Chủ nhật, ngày hai buổi đến trường,chiều thứ bảy dành cho học trò làm vườn trồng rau chấm điểm môn học thủ công (travail manuel). Chẳng hiểu vì chương trình học hợp lý, nhẹ nhàng hay vì tài sư phạm của các thầy mà chúng tôi đứa nào cũng thoải mái,chơi ra chơi vẫn học đâu nhớ đấy.Những cuốn Livre unique de Francais,Hístoire d’Annam của Dương Quảng Hàm,Quốc văn giáo khoa thư và Luân lý giáo khoa thư của Trần Trọng Kim là 4 cuốn giáo trình của lớp Nhất (cours Supérieur) mãi đến nay tôi vẫn còn vanh vách thuộc lòng nhiều đoạn.Chỉ thế thôi,còn các môn Toán,thì các thầy dạy không có sách giáo khoa như các môn trên.Tất nhiên ,tiếng Pháp thường gọi là tiếng Tây, được dùng thường xuyên trong trường, từ ông planton (khán trường) đến học trò thay phiên làm “Service” điểm danh hàng ngày:Présent-có mặt,Absent-vắng mặt.Các bác bán hàng văn phòng phẩm trên phố Phủ bấy giờ như hiệu Ngọc Thành ,hàng mũ Đại An thường đùa gọi chúng tôi là:

”Lẹo lẹo me dông đô,bố cu đờ tét bớp”nhại tiếng bồi câu tiếng Pháp cũng bồi nốt “Elèves maison d’eau-beaucoup de têtes boeufs”tức là” Học trò nhà nước, thật lắm đầu bò”.

Không biết vì sao, mãi đến nay-ở tuổi U100 mà lòng kính trọng các Thầy cấp Tiểu học mãi chẳng đổi thay.Hình ánh Cụ Hiệu trưởng Tây học Nguyễn Văn Bình khả kính ,dòng dõi khoa bảng,con cả Cụ Nghè Làng Yên Phúc- Tiến sĩ Nguyễn Văn Giá- nghiêm nghị trên bục giảng ,hậu duệ một dòng họ hiếu học bậc nhất tỉnh đã cống hiến cho đất nước nhiều tài năng trước và sau Cách mạng tháng 8-tan nát sau Giảm tô và CCRĐ.Thời ấy, ông nổi tiếng nghiêm khắc, thường trừng trị những học trò biếng nhác,không thuộc bài nhiều lần,quậy phá ,hay nói chuyện trong lớp- bằng câu nói quen thuộc “ Donnez-lui zéro!” (Cho trò ấy quả trứng ) và ngay sau đó là 3 roi song quắn đít-chỉ 3, không hơn không kém.Bắt nằm sấp trên bục đàng hoàng trước học sinh toàn trường rồi tự tay ông phạt.Cả lớp len lét và các lớp khác cũng sợ uy, răm rắp.Thật ra thì cả mấy năm tôi học ở đây chỉ xảy ra đôi lần ,cũng đủ làm các tay cù lần sợ xanh mắt .Trật tự luôn đảm bảo,đi theo đó là chất lượng nổi tiếng ngoài đời sau này của học trò Trường Pháp-Việt phủ Anh Sơn (cáo chung ngay sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945).

Mãi đến nay,sau hơn 80 năm ,bao kỷ niêm đẹp về các vị Thầy khai tâm ở quê nhà vẫn thường trực trong tôi.Từ Cụ Đinh Trung Thành người Ông đầu họ,đến các Thầy trường Pháp –Việt đạo mạo,hiền từ như Chú Hoàng Văn Chinh,Chú Nguyễn Đình Thành đồng hương khăn đóng áo dài, các Thầy Nguyễn Văn Bình,Nguyễn Văn Sự …luôn chỉnh tề tây phục mà biền biệt mấy chục năm qua chưa bao giờ được một lần gặp lại, nghĩ đến vẫn bùi ngùi ..Từ lâu, qua bao biến thiên long trời lở đất,không biết các hậu duệ của các Thầy lưu lạc phương nào trước bão táp của thời cuộc.Cả hai bạn học gái hiếm hoi thuở ấy-như Nguyễn Thị Dung con thầy Sự dạy lớp Nhì (cours Moyen II) thường mặc áo dài đen, ngồi bàn đầu ngay trước bàn tôi.Dạo ấy ngây thơ, chỉ ngồi nhìn bạn từ phía sau lưng,quả thật 3 năm học với nhau vẫn chưa hề nhìn kỹ mặt,chưa trò chuyện một lần mà chỉ nhớ cái gáy trắng nhỏ dưới mái tóc cắt cực ngắn rất nam tính .Bạn học nữ thứ 2 là Nguyễn thị Biền bẽn lẽn hơn ,con gái thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Bình dạy lớp Nhất (cours Supérieur).Nghe đâu cả hai sau CCRĐ đều khốn khó về hậu vận trớ trêu của thành phần xã hội.Hễ nghĩ đến,vẫn bâng khuâng tự trách mình sao vô tình đến vậy! Ít ra đôi bên cũng nên có chút duyên học trò lưu lại vài kỷ niệm thời mực tím ngây thơ! Đằng này…

Thấm thoắt đã nhiều năm xa các Thầy ,các bạn thời Trung học Thuận An ở Vinh,thành phố thủ phủ tỉnh Nghệ An và sau đó mấy năm ở Trường Lycéum Hồng Đức ở tận Huế, không nhớ hết tên .Chỉ còn mường tượng dáng nho nhã trí thức của Thầy Võ Thuần Nho ,Hiệu trưởng trường Thuận An, dạo ấy chưa ai biết là em ruột Đại tướng Võ Nguyên Giáp,sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục một thời;Giáo sư môn Sử -cụ Hoàng Đức Thi và Thầy dạy Văn, Trần Hậu Toàn người Hà Tĩnh luôn nhai trầu.Từ năm 1944, tình hình biến động,anh em chúng tôi-anh cả Đinh Viết Nguyên buộc phải trở về quê rồi tham gia Việt Minh ngay sau đó…

****

Trên đây là những bậc Thầy đã đưa chúng tôi đi trên con đường học vấn –tuy chưa hoàn thiện- do thời cuộc lịch sử tiền cách mạng,trước chiến tranh giải phóng,vẫn tạo cho mình một vốn văn hóa nhất định giúp mình tự cải thiện không ngừng .Điều lạ lùng là cho đến nay,cái vốn tích lũy từ ngày xưa trứng nước ấy vẫn thường xuyên nảy nở;những kiến thức ban đầu ấy luôn phát triển tự thân để có cơ hội tiếp thu bao điều mới lạ từ cuộc sống vần vũ phi thường qua 2 thế kỷ.Vốn văn hóa nhỏ nhoi nhưng vững chắc ban đầu ấy cho phép thưởng thức trực tiếp nhiều kiệt tác văn học Pháp-không qua sách dịch thời ấy vốn chưa hề có ,có thể vì đam mê ngoại ngữ nên thăng hoa-lượng đổi thành chất,phong phú và chuẩn xác qua thời gian . Tuy nhiên lòng vẫn luôn tự hỏi nhờ đâu mà bao nhận thức ban đầu vẫn luôn hiện hữu?

Thì ra bên cạnh những Thầy từng dạy bảo nghiêm túc trên ,còn có những bậc Thầy vô hình đã dắt dẫn mình vô tư ,không một lần lên lớp có công lao không nhỏ.Đặc biệt là phần ngoại ngữ.

Trước tiên ,đó là Quyển Tự điển Pháp “Petit Larousse illustré” in năm 1940 tại Paris mà không biết vì sao Mẹ tôi nhờ ai mua được.Thời ấy cả hàng Phủ may gì có dăm quyển,phải ra tận Hà Nội hay Huế mới mong tìm được.Với cậu bé nhà quê đích thị,thích tìm hiểu, sẵn quyết tâm ,tôi đã say mê tự học ngay trong quyển sách dày hàng nghìn trang,nặng chình chịch ấy dưới ánh đèn dầu hạt bưới,dầu hạt sở leo lét,khét mù.Kể cũng thật may.Số là cuốn từ điển này đặc biệt là loại nhiều hình ảnh có chú thích nghĩa chu đáo -ví dụ chỉ cần tìm hình con hổ sẽ biết ngay đó là “le tigre”,hay như hình con sư tử là có sẵn chú thích “le lion” Nhờ đó mà chỉ trong vài năm mần mò ,vốn từ vững tiếng Pháp của tôi vượt xa,khá xa các bạn cùng trang lứa mà còn ngang ngửa với một số đàn anh các lớp trên.Kết quả càng khích lệ ngay khi học lớp Đệ Nhất bậc Trung học , tôi đã đọc vo được những cuốn tiểu thuyết Pháp nổi tiếng như “Les trois Mousquetaires(Ba người lính ngự lâm pháo thủ) ”Vingt Ans après”(20năm sau) của Alexandre Dumas,”Pêcheurs d’Islande”Những chàng ngư phủ của Băng Đảo” của Pierre Loti…

Quyển Tự điển ấy tôi vẫn giữ như Kỷ vật số một ,quý báu nhất đời,người Bạn lớnNgười Thầy suốt thời gian dải 2 cuộc chiến tranh-từ năm 1947 đến mãi năm 1972, nhờ Mẹ tôi dìn giữ tại quê nhà Đô Lương ,lên bờ xuống ruộng ,cứ tảng sáng cất sách quý của con xuống đáy chum chôn sẵn ngoài vườn,đêm đến lại cất vào đầu giường để phòng bom đạn địch luôn nhằm vào miền quê đầy trận địa pháo phòng không ,chưa có một ngày yên bom đạn.Vị Thầy không nói ấy của tôi trước đây dày hơn 1.700 trang,khi theo Mẹ tôi ra định cư với các con ở Hà Nội năm 1972 còn lại hầu như nguyên vẹn ; vần A chỉ mất 02 trang và nửa vần Z phía sau đã bị rách mòn không khôi phục được.Điều kỳ lạ nữa là qua ngần ấy năm tháng dãi dầu,chỉ mục rách mất bìa,còn các mối chỉ khâu máy và toàn bộ những trang còn lại giấy vẫn phẳng phiu,không ố vàng,mục nát .Năm 2009 ,sau khi bồi bìa mới lại tốt đến mức ,tận bây giờ tôi vẫn tiếp tục sử dụng,không nỡ và cũng không cần mua quyển mới…

KỶ VẬT QUÝ NHẤT ĐỜI

Quyển Tự Điển in năm 1940

Chưa ố vàng,rách nát

Mất vài trang vần A, vần Z

Thấm mồ hôi,nước mắt Mẹ

Từng trang

Nâng pho Sách “Bạn-Thầy”2 Thế kỷ

Lệ nhòa ký ức

Ơn Mẹ hiền trao Kim Ốc* cho con

Sách nhờ Mẹ trường tồn, hai Cuộc Chiến

Hơi hướng Người

vương vấn

ấm nhân gian.”

Ngõ bằng lăng

Ngày Giỗ Mẹ 23 Tết 2009

ĐNH

*Thư trung hữu hoàng kim ốc(Trong sách có nhà vàng)

Xin kể tiếp tuần tự những bậc Thầy lặng lẽ đã dạy mình gián tiếp để có vốn tối thiểu -luôn háo hức thường trực nỗi đam mê Văn chương đeo đẳng ngay từ tuổi 14, khởi nguồn từ một buổi dạy làm thơ tại Trường Tư thục Chung Anh (Đô Lương) của thầy giáo Nguyễn Trung Lục nhân kỳ nghỉ hè với 4 câu thơ đầu đời

VÔ ĐỀ

“Đã lỡ ra đi,chẳng trở về

Không về nhớ tiếc cảnh đồng quê

Sông Lam bát ngát đầy thơ mộng

Trống rỗng lòng ta,nhớ não nề”…

1942

Kể cũng lạ! Đến nay tôi vẫn không hiểu động cơ nào khiến tôi viết những vần thơ đầu đời “sái” đến vậy lúc còn trong vòng tay Mẹ và Bà ,khi hai anh em chúng tôi năm nào chẳng “đáp tầu hỏa” từ Tp Vinh,xuống Ga Ngã ba Diễn châu rồi cuốc bộ 30 km về quê nghỉ 3 tháng hè! Ấy thế mà nghiệm.Năm 1946, cả 2 anh em tình nguyện nhập Vệ Quốc Đoàn –Trung đoàn Đội Cung và rồi biền biệt xa quê Đô Lương từ dạo đó. Và cuối năm ấy, tôi đã vĩnh viễn mất Anh tôi tại chiến trường Nam Trung bộ ,đúng vào sáng 30 Tết năm Bính Tuất.

Nghiệp thơ bắt nguồn từ buổi mở đầu năm 1942 tại trường Chung Anh.Tiếp đó năm 1945,những bài thơ đầu đời của Tố Hữu trong tập “Từ Ấy” như những ngọn lửa cách mạng soi sáng mọi tâm hồn,cuốn hút kỳ diệu bằng những áng thơ bốc cháy:

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim…”

Tiếp đó là những bài ca cực kỳ rung cảm vụt đến đúng tuổi hoa niên trong sáng,lời và nhạc đẹp như mộng,ám ảnh mãi không thôi.Đó là hai bản nhạc bất hủ Thiên Thai và Trương Chi của Văn Cao.Chính những ca từ cao sang âm vang,ma mị,ảo huyền của cả 2 tuyệt phẩm ấy suốt bao năm tháng cứ xâm chiếm tâm hồn,tác động thường xuyên và ảnh hưởng sâu đậm nỗi đam mê thơ phú vốn ươm sẵn trong tôi từ lời ru trên võng toàn ca dao,ví dặm của Mẹ và một miền quê văn vật suốt thời thơ ấu.

Theo gió tiếng đàn xao xuyến Tiếng ca lưu luyến mấy cung u huyền … Âm ba cánh đào rung…nao nao chèo khua nước Ngọc Tuyền…ai hát trên bờ Đào nguyên…Thiên Thai,chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian

“Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ…

Ôi! tiếng cầm ca,thu đến bao giờ…Trương Chi cất tiếng khoan…hò khoan…Giai nhân cười …nép trăng sáng lả lơi…lả lơi bên trời….

Rồi cứ thế,nghiệp văn chương vẫn thường trực trong tôi,âm ỉ như ngọn lửa thiêng, duyên nợ.Vài tập thơ ra đời.Rồi những tuyển tập.Rồi đến đầu Thế kỷ XXI, duyên may đã đưa chúng tôi nhập vào một trào lưu mới-trong sáng,tân kỳ xuất phát từ mấy trăm năm trước tại Xứ sở Mặt Trời Mọc-“Haiku”…

“ Nghề Y như giấc mơ hồng

Nghiệp Thơ- năm thức mây lồng

…hợp tan”

Và lại vào mơ, giấc mơ thơ- suốt đời:

“ Mơ…

Lung linh haiku

trên xanh trời Lục-Bát “

“Rộng cánh chim bằng –

Thơ

bay vào Cõi Nhớ”**

** Kính tặng Đại Hội Haiku Thế Giới lần thứ 8-Tokyo-2015

***

Ngõ bằng lăng

Hà Nội, tiết Lập xuân 2017

Đinh Nhật Hạnh


Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt