Haiku ở Việt Nam- Marius Chelaru

HAIKƯ Ở VIỆT NAM

Marius Chelaru – Tổng Biên tập

Tạp chí POEZIA Số 3, 2025  (Số 113, Năm thứ XXIX)

Lời người dịch: Như đã giới thiệu với quý thi hữu, Marius Chelaru, Tổng Biên tập Tạp chí POEZIA (Thi Ca) số Mùa Thu No.3, 2025 (Số 113, Năm thứ XXIX) của Hội Nhà văn România đã có bài giới thiệu khá dài “Haikư ở Việt Nam” (trang 97-113) trong chuyên mục “Thư Viện Haikư” (Haiku bibliothèque).

 Để giới thiệu bài viết này, tôi xin gửi quý thi hữu bản dịch từ tiếng România sang tiếng Việt nội dung bài viết của Marius Chelaru. Hàng trăm phiến khúc haikư của các haijin Việt Nam đã được Marius Chelaru tuyển từ hai tuyển tập Hoa Bốn Mùa và Mười Hai Năm ấy để dịch sang tiếng România thông qua tiếng Anh.

                                                                                                Lê Văn Truyền

BIBLIOTECA HAIKU

HAIKƯ Ở VIỆT NAM

Marius Chelaru

Trong số 111 của Tạp chí này, tôi đã giới thiệu Tuyển tập haikư România của TS Lê Văn Truyền (3 ngữ: România, Anh và Việt) do Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2024, với lời giới thiệu của Bà Cristina Romila – Nghị sĩ, Đại sử đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa România tại Hà Nội. Quyển sách được xuất bản với sự bảo trợ của Câu Lạc Bộ Haikư Việt Hà Nội (CLB HKV HN). TS Lê Văn Truyền, Chủ nhiệm CLB HKV HN nguyên là nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược Carol Davila ở Bucarest. TS Lê Văn Truyền đã viết: “ Có thể nói rằng tôi đã trải qua một phần tuổi thanh xuân trên đất nước tươi đẹp này và có biết bao kỷ niệm không thể nào quên với thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp...”

Trong số 112, tôi đã giới thiệu với bạn đọc những phiến khúc haikư của TS Lê Văn Truyền, một haijin quen thuộc đã xuất hiện trong nhiều ấn bản của Tạp chí World Haikư của Hiệp hội Haikư Quốc tế (WHA: World Haiku Association) mà ông là thành viên.

Theo một bài báo của Nhà thơ Đinh Nhật Hạnh, Chủ tịch CLB HKV HN (2009 – 2023) nhan đề “Tỏa lan và Hội nhập”, Câu lạc bộ Haikư Việt Hà Nội đã được thành lập vào tháng 5-2009, cho đến nay đã có hơn 15 năm hoạt động. Nhà thơ Đinh Nhật Hạnh viết: “Nhờ có những thành tựu trong Tuyển tập “Mười Hai Năm Ấy” và trên trang web: haikuviet.com, Haikư Việt đã được hân hạnh đăng tải các phiến khúc haikư của Ban’ya, Chủ tịch Hiệp hội Haikư thế giới, của Sayumi Kamakura, Phó Chủ tịch và các haijin nổi tiếng từ Bồ Đào Nha, Pháp Italia, Đan mạch, Ukraina, Nhật Bản, Đức và România ... Đó là những kết quả hoạt động 15 năm của hai CLB HKV ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Một khía cạnh “tỏa lan” khác thể hiện trên trang web: haikuviet.com, một trang web có thể nới không thua kém trang web thơ ca nào trong nước, với khoảng 7.000.000 lượt truy cập trong nước và nước ngoài. Về tình hữu nghị, CLB HKV đã có mối quan hệ gắn bó với nhiều haijin các nước, gần một nửa thành viên của CLB HKV là thành viên Hiệp hội Haikư Quốc tế, nhiều haijin Việt Nam đã có haikư được tuyển đăng trên tạp chí World Haiku và Tạp chí Ginya của World Haiku Association, bằng 3 thứ tiếng: Anh, Việt và Nhật”.

 Và bây giờ, trên tạp chí POEZIA của chúng ta.

Dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc của tạp chí POEZIA hai Tuyển tập “Hoa Bốn Mùa” và “Mười Hai Năm Ấy” để các bạn có thể thấy cách thức mà các haijin Việt sáng tác haikư, trong tuyển tập thứ nhất, và sau đó vài năm, trong tuyển tập thứ hai. Sau đó, chúng tôi sẽ giới thiệu haikư của một số haijin Việt Nam, đã được đăng tải trong Tạp chí của Hiệp hội Haikư Quốc tế do Ban’ya Natsuishi làm Tổng biên tập.

Tuyển tập “Hoa Bốn Mùa”  có Lời giới thiệu của nhà thơ Bằng Việt, Lời nói đầu của tập thể Ban biên tập (Đinh Nhật Hạnh, Lê Đăng Hoan, Đinh Trần Phương, Lê Văn Truyền, Minh Trí), Lời bạt “Như những hơi thở nhẹ” của Nhật Chiêu. Tuyển tập do Nhà xuất bản Văn học Hà Nội ấn hành năm 2015, gồm 252 trang. Trong Lời giới thiệu, nhà thơ Bằng Việt đã giải thích về thể thơ haikư và nguyên tắc sáng tác haikư bằng tiếng Việt. Sau đó, nhà thơ đã phân tích các đặc điểm của ngôn ngữ Việt, với từ đơn âm tiết, thích hợp với thể thơ haikư gồm 3 đoạn… Bằng Việt cũng đã đề cập nguyên tắc sáng tác haikư: gợi mà không tả, cảm thức sâu sắc, ranh giới mong manh giữa hạnh phúc và khổ đau… Nhà thơ cũng bàn về các khái niệm như tính Thiền, nói đơn giản như cách nhà Phật, một phiến khúc haikư 3 đoạn có thể mở ra “ba nghìn thế giới”… Cuối cùng, Bằng Việt đã khẳng định haikư là thể thơ “hơn một lần thơ”.

Lời nói đầu của Ban Biên tập được viết theo phong cách khác. Qua Lời nói đầu, độc giả được biết Tuyển tập Hoa Bốn Mùa bao gồm khoảng 400 phiến khúc haikư, chính xác là 408 khúc haikư của các haijin phụ nữ, nam giới… từ nhiều miền đất nước: Hải Phòng, Ninh Bình, Nha Trang, Sài Gòn… theo chủ đề Bốn Mùa. Lời nói đầu đã cho biết haikư Việt cũng đã “trình làng” vào dòng haikư thế giới trong tạp chí World Haiku của Hiệp hội Haikư Thế giới (WHA). Các phiến khúc haikư được tuyển đã sáng tác về các chủ đề hoa trái, chim muông, gió trăng, niềm vui, quá khứ, kỷ niệm và cuộc sống thường nhật… Các phiến khúc haikư cũng đã thể hiện các đặc điểm như:  nhịp điệu, nhạc tính, sự trong sáng, thuần khiết, vần điệu … đặc trưng của haikư Việt.

Lời bạt của Nhật Chiêu đã “vui mừng đón nhận” và cho rằng “những trang thơ của Tuyển tập giống như một lẵng thơ của những hơi thở nhẹ”.

Tôi không có khả năng giới thiệu với các độc giả România tất cả 408 phiến khúc haikư trong tuyển tập “Hoa Bốn Mùa” vì tôi không biết tiếng Việt để hiểu những gì đã đề cập trên đây. Tôi đã trao đổi với TS Lê Văn Truyền để hiểu một số khía cạnh nhằm có thể giới thiệu với độc giả România…

Sau đây là 59 trong số 408 phiến khúc haikư của các haijin Việt Nam, theo thứ tự xuất hiện trong quyển sách, được dịch sang tiếng România (thông qua tiếng Anh) kèm theo chú thích về một số địa danh, phong tục, tập quán, lễ hội… của Việt Nam.

MÙA XUÂN

  1. Nguyễn Kỳ Anh

Hãy nở bung / đừng e ấp / ôi nụ đào duyên

Deschide – te complet / nu mai fi timide / tu – un superb muguri de pierce

  1. Trụ Vũ

Giọt cà phê / không nói gì / không nói gì

Picătură de cafea / nu zice ceva / zice nimic

  1. Văn Bắc

Dưới gốc đa / ông đồ già / thả chữ

Dub bananier / un caligraf bătrân / scrie cuvintele incet

  1. Phan Hữu Cường

Mưa Xuân / bướm lạc mùi hoa / bậu vai thiếu nữ

In ploaia de primăvară / un pluture aterizează pe umărul unei tinere femei / incurcindu -l cu parfumul floarei

 Lương Thị Đậm

Dây điện bắc qua / đôi chim ríu rít / tình ca

Pe firul electric / un cuplu de păsări cintă / un cintec de dragoste

 Nguyễn Văn Đồng

Sông cong bờ đê / đê cong ruộng lúa / sóng lụa gái quê

Digul merge de-a lungul riului / cimpul de orez de-a lungul digului / a fată de la tară in haine de mătase

  1. Lý Viễn Giao

Chiếu giải hiên đình / sáo ghẹo trúc xinh / tay mềm uốn gió

Covoras intins pe puntea casei comunale a satului / flautul tachinează

micutii bambusi drăgălasi / degete delicate curbează vintul

 8.An Hải

Giếng nước đầu làng / lời tỏ tình / trong veo

In putul din capătul satului / cuvinte de iubire / limpeză cu apa din fintână

  1. Đinh Nhật Hạnh

Đêm Xuân / mơ trẻ quá / nắng mới rọi thức mình

Noapte de primăvară / vis tineresc / strălicurea timpurie a soarelui in somnul meu

  1. Hồ Hòang Hoa

Nằm cạnh núi / màu xanh / ùa vào giấc ngủ

Intins de-a lungul muntelui / verdele / pătrunde grăbit in somnul meu

 11.Lê Đăng Hoan

Mồng Một Tết mẹt kẹo tập tàng / cụ ngồi bán hàng / mình tôi làm khách

In prima zi a Anului Lunar / o bătrina vinde bomboana de casă / am fost singurul client

 12.Vũ Tam Huề

Hội làng rối nước / ô hay chú Tễu / ngàn năm không già

Păpusi de apă in festival sătes / hei, păpusile care rid / rămin tinere o mie de an

Hề chèo / đêm Xuân nghiêng ngã / phỗng đá cũng cười

Clovnul din operete traditională / risete in noapte de primăvră / statuia gardian a zeilor ride si ea

  1. Nguyễn Đăng Minh

Áo tứ thân lưng ong / cầu tình ơi giã bạn / mượt mà cánh lúa Xuân

Tinara cu talie de viespe intr-o bluză traditionala din patru piese / oferind ca rămas bun prietenilor pe podul iubirii /

primăvăratice frunze de orez aidoma catifelei

 Màu nắng trời mật ong / đồng lúa vàng bậc thang uốn lượn /

cháy mặt da người H’mông

Strălucirea soarelui ca miera / cimpurilr galbene terasate de orez bătute de vint / minoritate H’mong primeste arderea soarelui pe chip

 14.Mai Văn Phấn

Xuân / ngấm đất / đào xuống gặp toàn năm cũ

Primăvara / absorbită in sol / sapă găsind anii trecute

 15.Nguyễn Sương

 

Bãi cỏ non xanh / triệu triệu giọt kim cương / lúa đương thì con gái

Un câmp de iarbă fragedă / milioane de picuri de rouă ca diamantul / orez in primele lui zile

 

  1. Kim Thanh

 

Sapa tinh sương / tuyết phủ đồi nương / nhành mai hé nụ

Sapa in zori / dealuri si cimpuri acoperite ccu nea / un mugure de cais deschis pe jumătate

 

  1. Cao Ngọc Thắng

 

Quánh bắp chân / soi / dấu hỏi cấy mùa

Picioarele adinc in noroi, spate indoit in forma de semn de intrebare / fermierul translantează răsad de orez / intrebindu-se dacă recolta va fi bună ori rea

 

  1. Lê Văn Truyền

 

Những cánh bướm bay / váy H’mong rung rinh / đào xuân bừng nở

Aripi de fluture / cămăsi H’mong fluturind / piersici primăvăratici in ploare

 

  1. Phùng Gia Viên

 

Lấm những đường cày / lưng còng hàng mạ cấy / hình cha dáng mẹ

Brazde si rinduri de răsaduri de orez transplantate /

imagini cu tata in nori / mama cu spatele incovoiat

 

 

MÙA HẠ

 

  1. Nguyễn Kỳ Anh

 

Tầng không / sáo diều mục đồng / lưng trâu vắt vẻo

Spus pe cer / răzbate muzica unui zmeu flaut / un pastor cocotat pe un pivol

 

  1. Văn Bắc

 

Lũ ngập làng / bò trên đê / ngóng về mái rạ

Satul e complet inundat / vacile pe dig / ne răbdatoare să revină la grajdurile lor

 

  1. Lê Đình Công

 

Mưa lớn / gột sạch /những cây cao

Ploia puternică / spală / copaii inalti

 

  1. Phan Hữu Cường

 

Trăng lên / bóng ngọn tre / quét sạch sân nhà

Luna răsare / umbrele vârfurilor bambusilor / mătură curtea curătind – o

 

  1. Nguyễn Văn Đồng

 

Động Puong âm u / bóng em áo đỏ / cánh dơi giật mình

Pesterea Puong e intunecoasă sinii tăi in bluza rosie / lilieci speriati

 

  1. Đinh Nhật Hạnh

 

Vũng trâu đằm / mặt trời / lộn ngược

Intr-un elesteu noroios unde se scaldă bivolii / soarele / cu sun-n jos

 

  1. Lam Hồng

 

Đêm / giọt mưa rơi / chơi vơi

Noapte / picurii de ploaie / se simt singuri

 

 

 

 

  1. Vũ Tam Huề

 

Hè chuyển vào Thu / đìu hiu mặt hồ / đóa sen nở sót

Intre vară si toamnă / pe lacul intunecat /

 a rămas un singu lotus intirziat inflorit

 

  1. Nguyễn Thị Kim

 

Vai gầy mẹ gánh / cả đồng lúa thơm / chẳng đầy niêu cơm

Umerii slabi ai mamei / ingrijind cimpul de orez strălucitor /

vasul de orez incă nu e umplut

 

  1. Nguyễn Hoàng Lâm

 

Lá sen / lắc giọt sương / mặt trời

Frunze de lotus / scuturind picurii de rouă / soarele

 

  1. Phạm Ngọc Liễn

 

Tiếng cồng chiêng / rung bóng / cây Kơnia

Sunetele gongurilor / scuturind / umbrele arborelui Ko-nia

 

  1. Đỗ Tuyết Loan

 

Mưa mưa / cưa đôi / nỗi nhớ

Plouă plouă / nostalgia / văzută-n bucăti

 

  1. Phúc Oanh

 

Rong chơi / em và mặt trời / đuổi bắt

Rătăcind / tu, fata si soarele / vinindu-vă unul pe altul

 

  1. Đinh Trần Phương

 

Dường như tiếng ếch / rơi xuống từ trời / cùng cơn mưa

Sunetele broastelor / pare că au căzut din cer / cu ploaia

 

 

 

 

  1. Vương Trọng

 

Sâm cầm bay lên / hồ Tây băt chợt / gió hương sen

O lisită neagră zboar ă dintr-o dată / Lacul de Vest plin  /

cu vântul mirosind a lotus

 

  1. Lê Văn Truyền

 

Những búp sen / giọt mưa hồng / vươn lên trời tìm gió

Muguri de lotus / picături de ploie roz / intinzindu-se spre in căutarea vântului

 

  1. Trụ Vũ

 

Tách cà phê / hạ trắng / gọi thu vàng

O cească de cafe / vara albă / chemind toamna galbenă

 

 

 

MÙA THU

 

  1. Lê Thị Bình

 

Dạ hương / lẩn quất / đẫm sương

Flori de hiacint / ascunse undeva / inmuiate – in rouă

 

  1. Phan Hữu Cường

 

Trống ếch kêu / cùng lũ trẻ / trăng Trung thu

Copi / bătind tobele broaste / lunar de mijlocul toamnei

 

  1. Đinh Nhật Hạnh

 

Sương sa / bụi đời trăm ngả / liệu còn giọt trong

Printre picăturile de rouă / in lumea asta prăfuită / vreuna rămine curată

 

  1. Kiều Lam

 

Lá vàng / tóc trắng / mùa Thu rơi

Frunze galbene / păr alb / zile de toamnă

 

  1. Nguyễn Hoàng Lâm

 

Vớt ánh trăng / trong / mắt ngựa

Culegind luna / din ochii / calului

 

  1. Đinh Trần Phương

 

Đêm thành phố / chẳng còn ai nhìn / trăng mơ hồ trôi

Noapte la oras / nimeni nu priveste luna / care abia de pluteste

 

  1. Lê Văn Truyền

 

Hương Thu / đưa người / về kỷ niệm xưa

Mireasma toamnei / mă poartă / spre vechi amintiri

 

  1. Phùng Gia Viên

 

Tiết đầu Thu / đưa nhau về liếp / sương mù mùa Đông

Inceputul toamnei / impreună in spatele peretelui de bambus / ceata iernii

 

 

   

 

MÙA ĐÔNG

 

 

  1. Lê Thị Bình

 

Bàn tay gầy / hơ lửa ấm / nhớ tuổi thơ

Uscindu – mi la un foc / mâinile mele slăbă noage / imi reamintesc copilăria

  1. Vũ Tam Huề

 

Mịt mờ tuyết rơi / nghe tiếng ai cười / biết ai còn trẻ

Neaua cade groasă / auzând zimbetele oamenilor / stii cine incă e tinăr

 

  1. Đinh Trần Phương

 

Vệt sương mùa Đông / còn đọng cửa sổ / nước mắt giấc mơ

O urmă de rouă de iarnă / rămasă pe feneastră / lacrimile visului

 

  1. Như Trang

 

Nhắm mắt / tìm Đông / giữa phố đông

Inchizându – mi ochii / merg in căutarea iernii / pe străzile aglomerate

 

  1. Lê Văn Truyền

 

Đầm sen mùa Đông / những dấu chấm than / gieo trên mặt nước

Un elesteu cu lotus in iarnă / e privit / cu exclamatii

 

        

 NGOÀI MÙA

 

  1. An Hải

 

Cây đa làng / vui buồn / mắt lá

Bananierul satului / frunze in formă de ochi / tristi sau fericiti

 

  1. Phan Vũ Khánh

 

Thời gian vỡ / tờ lịch niêm phong / khung ảnh ban thờ

Timpul e frint / de o foaie din calendar / care sigilează rama fotografiei de altar

 

  1. Thạch Lựu

 

Cờ Tổ quốc / máu anh hùng / hồn dân tộc

Steagul national / singele eroilor / si spiritul natiunii

 

  1. Mai Văn Phấn

 

Vẫn chìa khóa ấy / hôm nay / không thể mở

Aceasi cheie veche / azi / numai poate descuia usa

 

  1. Lê Anh Tuấn

 

Tiếng kinh Di Đà / mẹ ngồi hóa đá / nhìn di ảnh con

Spunând rugi Budiste / privind fotografia copilului ei in altar /

mama se preface-n stincă

 

 

  1. Phùng Gia Viên

 

Không nhìn thấy / gió lòng / ai tắt

Nu se poate vedea / că vântul din inima cuiva / a incetat sămai bată

 

 

MƯỜI HAI NĂM ẤY

 

 

“Mười Hai Năm Ấy” – Tuyển tập haikư được Nhà thơ Nhật Chiêu viết Lời giới thiệu, do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam ấn hành năm 2019. Tôi nhận được Tuyển tập này từ TS. Lê Văn Truyền, sau Tuyển tập Hoa Bốn Mùa. Chúng tôi muốn giới thiệu Tuyển tập này đến quý độc giả, thông qua các bài haikư được dịch ra tiếng România với tất cả những gì chúng tôi có thể, như đã thực hiện với Tuyẻn tập Hoa Bốn Mùa, để quý độc giả có thể thấy được những bước tiến của haikư Việt từ năm 2015 đến năm 2019.

 

Trong Lời giới thiệu tựa đề “Thơ Haikư 12 mùa Xuân”, nhà văn Nhật Chiêu đã kể rằng Ông đã sáng tác haikư từ năm 1975, khi mà thể thơ haikư thâm nhập vào Việt Nam. Sau khi thơ haikư đã được giảng dạy ở trường học, các Câu lạc bộ haikư được thành lập, trước tiên ở Sài Gòn, sau đó ở Hà Nội với xiết bao tình cảm sâu đậm. Trong đó có biết bao tìm tòi lay động, tự làm mới mình và công sức để đưa thể thơ xa lạ kia vào tâm hồn Việt. Nhật Chiêu đã viết: Bài haikư của nhà thơ gần 100 năm tuổi đời Đinh Nhật Hạnh có thể kết đọng tình hình thơ haikư ở Việt Nam:

 

Mưa vẫn tầm xuân

lất phất

nắng còn say lắm hoa cau

 

Măcestii incă / in stropi de ploaie / flori de areca in betia luminii solare

 

Như đã nói trên đây, để bạn đọc có cái nhìn tổng quát về haikư Việt hiện đại, tôi xin dịch sang tiếng România  một bài haikư của mỗi tác giả theo thứ tự xuất hiện trong tập thơ.

 

 

  1. Nguyễn Kỳ Anh (1938)

 

Mây vờn núi / bướm vờn hoa / thơ vờn ta câu chữ

Norii se joacă cu muntele / fluturii cu florile / eu cu versurile si cuvintele

 

  1. Phương Anh (1963)

 

Đêm Xuân / người đàn bà bên cửa sổ / lời hẹn chưa về

Noapte de primăvară / o femeie la feneastră / intânire distrusă

 

  1. Lại Duy Bến (1950)

 

Hành khất / vun lại / những ngày xanh

Un cersetor / inmultindu – si / zilele fericite ale vietii

 

  1. Lê Thị Bình (1949)

 

Em gái Cần Thơ / giữa lòng Hà Nội /gót nhọn gõ đêm

O tinără din Can Tho / in inima Hanoiului / sunet tocurilor cui in noapte

 

  1. Ngọc Căn (1943)

 

Dưới bóng đa / người già / mọc rễ

Unul bătrân asezat / sub un arbore bayan / ii cresc rădăcini

 

  1. Trần Chiến (1956)

 

Hai bàn tay / ấp lên ngực / giọt sữa đầu đời

Două mâini / asezate pe piept / primele picături de lapte din viată

 

  1. Lê Đình Công (1938)

 

Đùa vui cháu bé / ông trở về con trẻ / hoàng hôn

Jucindu-se cu nepotii / bunicl revine la copilărie / apus de soare

 

  1. Phan Hữu Cường (1940)

 

Bọn trẻ trốn tìm / lủi vào bãi đào / áo đầy cánh hoa

Jucind ascunsa / copii in grădina de piersici / petale de haine

 

  1. Hồng Đào (1973)

 

Tràng Tiền / sáu nhịp cầu cong / ngẩn hồn lữ khách

Podul Trang Tien / sase stronsoane curbate / incintare pentru călătoare

 

  1. Lương Thị Đậm

 

Lặng câm / mảnh gỗ hóa thạch /nói lời triệu năm

Liniste deplină / un bustean fosilizat / cuvinte de milioane de ani

 

  1. Nghiêm Xuân Đức (1940)

 

Cúc nở rộ giữa hè / trong tiếng ve / không có mùa Thu trước

Crizanteme in floare in toiul verii / ciripitul limpede ai cicadelor/

nici o fostă toamnă

 

  1. Lý Viễn Giao (1939)

 

Mượn gió Đông / gọi sắc hồng / cành đào cũ

Vânt din est / culoare roz / bătrin ram de piersic

 

  1. An Hải (1949)

 

Cội mai già / hé nụ / chú chim nho nhỏ

O ramură veche de cai / muguri de flori semideschisi / o păsărică

 

  1. Lưu Đức Hải (1960)

 

Bông lúa / ngẩng mặt lúc còn xanh / cúi đầu khi đã chín

Un spic de oreza /  drept când e verde / se pleacă când este copt

 

  1. Đinh Nhật Hạnh (1928)

 

U100 rồi ư / bốn thế hệ chung mái nhà / ngỡ như mơ mà thật

Sunt U100 / patru generatii impartind acelasi acoperis / ca un vis dar adevărat

 

  1. Hồ Hoàng Hoa (1950)

 

Sáng nay trời trở gió / ai đang nép cửa / chờ

Astă dimineată vântoasă / cineva ghemuit asteaptă / ascuns după usă

 

  1. Mộng Hòa (1945)

 

Đồng Lộc / ngã ba / mười bông hồng trắng

Dong Loc / o răscruce in T / zece trandafiri albi

  1. Lê Đăng Hoan (1944)

 

Tara bogată in energie nucleară / lăsându-si oameni / in sărăcia orezului

 

  1. Vũ Tam Huề (1945)

 

Cáp treo du Xuân / bồng bềnh gió mây / chào bầy chim én

Călătorie in primăvară cu telecabina / nori plutind in vânt  /

salutăm un stol de rindunele

 

  1. Lê Khắc Huy (1956)

 

Sáng ra / bông hoa đứng khóc /em ấy bảo nhớ nhà

Dimineata devreme / o floare plângind / dor de casă

 

  1. Phan Vũ Khánh (1959)

 

Trên lá sen / bóng trăng già / giọt sương mười sáu

Pe frunza de lotus / o picăture de rouă / lună plină

 

  1. Nguyễn Kiên (1980)

 

Trong mờ sương / tôi vẫn thấy rõ / màu vàng cúc quỳ

In ceată densă / florile soarelui sălbatice /

incă se văd limpede

 

  1. Nguyễn Thị Kim (1941)

 

Phượng thắp đuốc / thắm / nắng hè

Aidoma unei torte aprinse / rosu profund flamboiant / soare de vară

 

  1. Kiều Lam (1937)

 

Cuối hạ / con ve già / uống hạt sương đầu thu

Sfârsitul verii / o lăcustă bătrină / bea picăturile de rouă ale toamnei timpurii

 

  1. Nguyễn Hoàng Lâm (1954)

 

Cánh cửa khép hờ / không bàn tay chạm / nỗi buồn vu vơ

Usa partial inchisă / n-o atinge nici o mână / tristele fără motiv

  1. Mai Liên (1970)

 

Giọt sương êm đềm / trên lá / nước mắt của đêm

Picăture de rouă tăcute / pe frunze / lacrimi ale noptii

 

  1. Ngô Ngọc Liễn (1934)

 

Giọt cà phê / rơi không nói / lắng nghe dòng đời

O picătură de cafea / căzând fără o vorbă / ascultând fluxul vietii

 

  1. Phạm Ngọc Liễn (1932)

 

Sen tàn / gửi hương cho gió / tới người đa đoan

Lotus ofilit / trimitând parfumul in vânt / spre o persoană complicată

 

  1. Đỗ Tuyết Loan (1943)

 

Gốc đào rét hại / gắng nở nụ hoa / ngượng ngùng cánh nhỏ

Afectat de vremea rece / piersicul incearcă să inflorească / petale mici rusinate

 

  1. Thạch Lựu (1941)

 

Chiếc lá vàng rơi / ngập ngừng trên vai tôi / trước khi về cội

Frunzele aurii cad / zăbovind pe umărul meu / apoi pe pământ

 

  1. Nguyễn Đăng Minh (1948)

 

Dòng sông ngọt bất tận / trung thành biển mặn sâu thăm thẳm / tiếng tù và ốc gai

Nesfirsitul riu dulce / marea regală adincă sărată /

sunetul cornului scoici

 

  1. Nguyễn Thánh Ngã (1964)

 

Im lặng / ta cúi đầu / ngưỡng phục mùi hương

In tăcere / imi inclin capul / admirând mireasma

 

  1. Thiện Niệm (1942)

 

Tháp mái rêu phong / thêm còng lưng tượng / hương nồng thòi gian

Turnul măcinat de vreme / statuta aplecindu – se / mirosul timpului

  1. Mai Văn Phấn (1955)

 

Gần sáng / ngủ say không biết / nằm cạnh mùa hè

La finele noaptii / dormind ca un lemn / intins lângă vară

 

  1. Hồ Phương (1979)

 

Hoa anh đào / bay bay trong gió / nước mắt mùa Xuân

Flori de cires / zboară in vânt / lacrimile primă verii

 

  1. Đinh Trần Phương (1981)

 

Chú bé ấy / áp vỏ ốc bên tai / màu xanh dương im lặng

Băietelul acela / apăsând o scoiă de ureche / albastrul tăcut

 

  1. Vũ Phượng (1955)

 

Thu sang / vàng nỗi nhớ / ngẩn ngơ mái trường

Toamna vine / amintiri aurii / dor de scoală

 

  1. Thu Sang (1954)

 

Hạt ánh sáng / nẩy mầm / trong đêm tối

Săminta luminii / germinând / in noaptea intunecată

 

  1. Lương Sơn (1940)

 

Giọng hò mài nhì da diết / bóng thuyền / trôi trong trăng

Cintecele barcagiului Mai Nhi / umbra unei bărci / plutind in lumina lunei

 

  1. Nguyễn Sương (1951)

 

Trời sang Xuân / gốc thông già / Đà Lạt mơ

E primăvară – acum / martie rece / suprafata mării incretindu-se

 

  1. Sĩ Tâm (1968)

 

Cánh đồng / lưng ong thánh thót / giọt mồ hôi trổ đòng

Femei cu talie de viespe / transpiratia picurând pe câmp /

orez in urechi

  1. Cao Ngọc Thắng (1953)

 

Đêm Thu / gom nhung nhớ / thả vào trăng mộng mơ

Noapte de toamă / adun amintiri dragi / le trimit lunii visătoare

 

  1. Nguyễn Đức Thiêm (1953)

 

Bông hồng / hương thoảng / dịu lòng ta

Un trandafir / o adiere de parfum / imi moaie inima mea

 

  1. Ánh Thu (1962)

 

Đêm buông / cửa khép / tim thức

Căderea noptii / usi inchise / inima rămâne trează

 

  1. Minh Trí (1962)

 

Đảo xa / cánh thư giăng mắc / ánh mắt người đất liền

Scrisori / de pe-o  insulă depărtată / strălucirea ochilor celor de pe continent

 

  1. Lê Văn Truyền (1941)

 

Mây thiêng Yên Tử / hóa giọt sương bậu trên mi mắt / thức ngộ lẽ Vô Thường

Nori sfinti de la pagode Yen Tu / se transformă in picături de rouă pe gen /

intelegerea efemeritatii

 

  1. Phan Phượng Uyên (1983)

 

Đêm trăng / hai người / chung một bóng

Noapte cu lună / două persoane / fac o singură umbră

 

  1. Ngọc Vân (1958)

 

Vườn thơ vắng / mực ngừng chảy / ngòi bút buồn

Grădina de poezie părăsită / cerneala nu mai curge / o pană tristă

 

  1. Thanh Vân (1947)

 

Mùa khóac áo Đông / tôi choàng khăn ấm / có người lạnh căm

Anotimp umbrăcat cu haine de iarnă / eu cu o esarfă / cuiva ii e infiorător de frig

  1. Phùng Gia Viên (1953)

 

Hà Nội sắc nâu / thu / len vào còi rú

Ha Noi maroniu / toamnă / cu claxoane de masini

 

  1. Lê Vũ (1949)

 

Người cuối bãi / kẻ chân trời / trăng treo

Unul la capătul plajei / celălalt la orizont /lună plină

 

Sau đây là tập hợp những bài haikư của các cộng tác viên, một số bài từ các haijin hải ngoại, không có ghi chú về tiểu sử… Vì lý do bản quyền, chúng tôi chỉ giới thiệu một bài haikư của mỗi tác giả Việt Nam.

 

Phạm Đạo (1940)

 

Trước màn hình máy tính / không khoảng cách, chẳng thời gian / mùa Xuân

In fata ecranului computerului / nici distanta nici timpul / primăvara

 

Nhã Trúc (1986)

 

Trên cành cây khô / lũ mây theo ánh sáng / về cùng mùa Xuân

Pe o ramură uscată /norii care urmează lumina / vin cu primăvară

 

 

*

* *

 

 

 

Dưới đây là những phiến khúc haikư của các haijin Việt Nam gửi đăng trong Tuyển tập của WHA (năm 2025) Số 21 do TS Lê Văn Truyền gửi.

 

 

  1. Đinh Thị Hồng Sim (An An) – Hà Nội

 

Tiếng trống trường / thúc giục / từng bước chân quen

Sunetul tobelor scolli / indemnind / pasii familiari

 

 

  1. Đồng Thị Như Trang (Làng gần nhất) – Hà Nội

 

Những ngón tay / đi về miền sâu thẳm / tôi tìm thấy tôi

Degete / mergând in profunzimi / mă găsesc pe mine

 

  1. Lê Đăng Hoan – Hà Nội

 

Sấm ì ùng / mưa lộp độp / mùi phân trâu thum thủm

Tunetul bubuind / ploaia picurind / mirosul de bălegar de pivol

 

  1. Lê Văn Truyền – Hà Nội

 

Đêm Xuân / giở từng trang sách cũ / tôi tìm thấy tôi

Noaptea de primăvară / dind paginile unei cărti vechii / mă regăsesc

 

  1. Lưu Minh Hải – Quảng Bình

 

Cạn ngày rồi / chú quạ đơn độc / nhặt ánh tà rơi

Ziua s-a terminat / un corb solitar / adună apusul in cădere

 

  1. Nguyễn Đức Bá – Quảng Nam

 

Giọt trăng rơi / chén trà lung linh / nỗi lòng

Picături căzătoare de lună / cească de ceai strălucitoare /

 cele mai profunde sentimente

 

  1. Nguyễn Minh Trí – Hải Phòng

 

Tháng Bảy Vu Lan / ban thờ bách họ / kết nối âm dương

Festival Pietătii Filiale din iulie / altare familiale /

legătura Yin – Yang

 

  1. Nguyễn Thị Lâm (Nguyễn Hoàng Lâm) – Hà Nội

 

Mỗi giọt sương / trên từng chiếc lá / mang nỗi niềm riêng

Fiecare strop de rouă / pe fiecare frunză / cu proprile sentimente

 

 

 

 

  1. Nguyễn Thị Phương Anh – Hà Nội

 

Phố phường / nhà cửa san sát / những khoảng trống bên trong.

Străzi / numeroase casea apropriate / spatii goală inăuntru

 

  1. Nguyễn Thị Kim – Hà Nội

 

Chiếc lá buông cành / lần bay duy nhất / cánh diều mỏng manh

O frunză căzând de pe ram / unicul zbor / un zmeu fragil

 

  1. Nguyễn Văn Kiên – Hà Nội

 

Cánh chim hoà bình / vẫn bay trong bầu trời / đầy mùi thuốc súng

Pasărea păcii / incă zboară pe cer / plină de mirosul de praf de puscă

 

  1. Phan Phượng Uyên (Mai Trinh) – Bạc Liêu

 

Mùa thu lá rũ / sương trắng phủ chiều / lạnh gió qua song

Frunzele de toamnă căzătoare / ceata după-amiezii /

 vânt rece prin gratiile ferestrei

 

  1. Vũ Thị Ngọc Thu – TP Hồ Chí Minh

 

Cánh thư bay / ủ ấm niềm thương nhớ / nói hộ tình yêu đợi chờ

Scrisoare zburătoare / incălzeste dorul /

 vorbeste despre dragostea care asteaptă

 

  1. Lê Quang Vũ (Lê Vũ) – Nha Trang

 

Khua chân / lội giữa hồng trần / rong chơi.

Picioare miscătoare / mergind prin praful rosu / mă joc imprejur

 

  1. Tô Hằng Thanh – Khánh Hòa

 

Nâng ly trà sương khói / sóng cuộn giữa phong ba / mặt trời soi muôn ngả.

O cească aburindă de ceai / valuri de furtună /

soarele străluceste peste tot

 

 

 

  1. Nguyễn Thị Ngọc Vân (Ngọc Vân) – Khánh Hòa

 

Cơn mưa hạ / lộc giát vàng / rơi xuống đầu nông dân

Poaie de vară / binecuvântări aurit / oferite fermierilor

 

  1. Trà Thị Kim Huy (Trà Huy) – Khánh Hòa

 

Bóng chiếc / trải dài / lên nền hoàng hôn

Umbră singuratică / intinzindu – se / de-a lungul apusului

 

  1. Đào Thị Khánh Huệ – Khánh Hòa

 

Đêm mưa / tiếng gọi đò / run rẩy khóc

Noapte ploioasă / apelul feribotului / tipăt tremurind

 

  1. Trần Chiến – Nha Trang

 

Đàn kiến / đưa tang / chú ve sầu ngủ quên

Colonie de furnici / in procesiune  funerară / a cicadelor adormite

 

  1. Nguyễn Thị Hồng Đào (Hồng Đào) – Khánh Hòa

 

Chiếc võng đung đưa / vui buồn du khách / đường về.

Hamacuri legănându – se / bucuria si tristetea călătorilor /

drumul spre casă

 

  1. Mân Thị Thùy Trang (Mân Thùy Trang) – Nha Trang

 

Nhìn giọt cà phê rơi / tan chảy / mảnh vỡ cuộc đời

Picături de cafea /  dizolvindu – se / picături frinte de viată

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC (Addenda)*

Marius Chelaru

România

*Chú thích của người dịch:

Trong phần Phụ lục dài 6 trang, Marius Chelaru đã ghi chú và giải thích cho độc giả România một số vấn đề về lịch sử hình thành chữ viết Việt Nam từ chữ Hán, chữ Nôm cho đến chữ Việt hiện đại dựa trên bảng chữ cái latinh.

 Tác giả cũng đề cập đến một số tác phẩm và tác giả như Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Đỗ Trung Ngạn, Nguyễn Đình Chiểu…Bản Phụ lục cũng chú giải về một số địa danh, phong tục, tập quán, về các dân tộc ít người … Đây là phần dành cho độc giả România nên người dịch xin phép không chuyển ngữ phần Phụ lục.

 Có thể nói, Marius Chelaru đã dành một tình cảm đặc biệt khi viết bài giới thiệu về Haikư ở Việt Nam và dịch hơn 100 phiến khúc haikư của các haijin Việt Nam sang tiếng România để giới thiệu với bạn đọc România.

                                                                              Lê Văn Truyền dịch

Bài viết khác

Tác giả: Haiku Việt