
Tại Nhật Bản, người mới học làm thơ haiku được các bậc thơ haiku tiền bối khuyến khích đọc và tìm hiểu thơ haiku từ các sách liên quan đến bốn mùa như Nihon saijiki (Tuế thời ký Nhật Bản), Kotoba no saijiki (Thuật ngữ Tuế thời ký)… và xem đó như là cẩm nang khi đến với thơ haiku.
Saijiki (歳時記) là gì? Nói đến saijiki, không ít người liền liên tưởng ngay đến thơ haiku, cho rằng đó là tuyển tập quý ngữ để dùng khi sáng tác thơ haiku. Thật ra, saijiki đã được ra đời từ trước khi thơ haiku xuất hiện. Được du nhập vào Nhật Bản, lưu truyền từ thời kỳ tiền thơ haiku, saijiki tập hợp những thuật ngữ liên quan đến đời sống văn hóa gắn liền với thiên nhiên.
Khi nhà thơ Basho và thơ haikai ra đời, bộ sách Nihon saijiki được biên soạn. Hình ảnh cuộc sống trong dân gian, phong tục tập quán, đời sống dân dã… hòa quyện với thiên nhiên bốn mùa được khắc họa bằng những bài thơ haiku xuất hiện trong các bộ sách saijiki này. Từ đó các thuật ngữ trong saijiki trở thành kigo (quý ngữ) – một trong các quy ước không thể thiếu trong thơ haiku. Với vai trò quan trọng về nội dung lẫn hình thức, kigo còn được gọi là sinh mệnh của thơ haiku:
Theo thơ haiku truyền thống, kigo là cần thiết và chất liệu này phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên. Nét quyến rũ của thơ haiku là thông qua kigo luôn nắm bắt được hình ảnh thiên nhiên, cô đọng sự vĩnh hằng của thiên nhiên vào một thể thơ cực ngắn. Kigo phản ánh sự chuyển động của thiên nhiên, nhờ vay mượn sự rộng lớn của thiên nhiên được thể hiện thông qua quý ngữ, thơ haiku đã khắc phục được tính bé nhỏ vốn có của riêng mình[1].
Đời sống văn hóa phong phú hòa mình với thiên nhiên đã ban tặng cho ngôn ngữ tiếng Nhật một kho tàng đồ sộ các thuật ngữ nói về kigo. Từ thế kỷ XVII, các bộ sưu tập kigo đã được tập hợp và soạn thảo, cho đến nay nhiều từ điển kigo được xuất bản, tiêu biểu nhất là bộ sưu tập saijiki tập hợp các kigo được phân loại theo địa lý, động vật, thực vật… qua sự thay đổi bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Theo lời Fuji Kunihito, “Nhật Bản có thể hãnh diện với tự điển saijiki duy nhất trên thế giới này”[2].
Ngày nay, các nhà thơ haiku Nhật dù từ nhiều trường phái khác nhau, từ thơ haiku truyền thống đến hiện đại, từ nội địa đến hải ngoại, từ giới trẻ đến tiền bối… vẫn luôn mang theo mình các cẩm nang về Tuế thời ký (saijiki), hoặc tuyển tập kigo – quý ngữ khi sáng tác và bình luận thơ haiku. Gần đây, bộ Tuế Thời ký Haiku mới nhất (Saishin Haiku Saijiki) được biên soạn, phân loại chi tiết các đời sống văn hóa xã hội qua các mùa như Thiên nhiên, Đời sống, Văn hóa, Địa lý, Lễ hội, Trang phục, Ẩm thực, Ăn- Ở- Mặc… khá chi tiết và xem đó như là cẩm nang khi đến với thơ haiku”[3]. Nhiều người còn ví von rằng các bộ Tuế Thời ký haiku (Haiku saijiki) có thể được xem là Bộ Bách khoa toàn thư thơ haiku.
Ví dụ, nói đến ánh trăng chẳng hạn. Trăng thì lúc nào cũng có thể nhìn thấy được cơ mà. Có gì lạ đâu. Nhưng với Nhật Bản, “trăng” quý ngữ của mùa thu bởi vì đêm trăng thu là đêm đẹp nhất. Hoặc nói đến “Hana” (hoa), có thể liên tưởng đến biết bao nhiêu là hoa, nhưng với Nhật Bản, mùa hoa đẹp nhất là mùa hoa anh đào.
監視カメラ映像に花降りしきる[4](Sugiura Keisuke)
kanshi kamera / eizo ni hana / ori shikiru
Camera giám sát
ghi hình
những cánh hoa rơi
(Quỳnh Như dịch)
Bài thơ mang đậm phong cách hiện đại với cấu trúc 6–7–6, sử dụng hình ảnh rất thời đại “camera giám sát” trong bối cảnh đông người chen chúc ngắm hoa mùa hoa anh đào. Dù vậy, bài thơ vẫn không quên đưa vào quý ngữ “hana”. Trao đổi với tác giả của bài thơ nói trên thì biết chắc rằng “hana” (hoa) trong bài thơ nghĩa là hoa anh đào (sakura). Tác giả bài thơ còn nhấn mạnh rằng khi nói đến “Lễ hội hoa” thì hầu như người Nhật Bản nào dù không phải dân chơi thi ca đều ý thức rằng đó là đi ngắm hoa anh đào. Thơ haiku Nhật Bản ngày nay dù hiện đại đến đâu đi nữa nhưng vẫn luôn chú trọng cái “chất” như thế. Nhờ vậy dù thơ haiku đang được lan tỏa ra khắp mọi miền trên thế giới, nhưng haiku vẫn là haiku và luôn được bảo tồn.
Khi Nhật Bản bước vào thời kỳ hiện đại, các bộ thuật ngữ saijiki cũng được biến đổi. Nếu trước kia, các thuật ngữ được phân loại dựa theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông thì nay đã thành năm mùa: Năm mới, Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nếu trước kia, bộ saijiki chỉ là Nihon sakiji (Tuế thời ký Nhật Bản), thì nay đã xuất hiện Sekai saijiki (Tuế thời kỳ Thế giới). Tất nhiên thôi vì thơ haiku ngày nay đã được lan truyền rộng rãi hơn 70 quốc gia trong đó có Việt Nam.
Lật xem thử bộ Sekai saijiki, với những hình ảnh đời sống văn hóa trên thế giới của các quốc gia từ Đông Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, đến Trung Đông, châu Mỹ, Châu Âu… thật ngỡ ngàng đã bắt gặp những bài thơ haiku của các nhà thơ haiku Nhật Bản viết về Việt Nam. Đây là những bài thơ có thể là ký ức, hoài niệm về một thời đã từng đặt chân hoặc từng được biết đến Việt Nam. Đọc đi đọc lại, kìa là thành phố Hồ Chí Minh dưới những cơn mưa dông cùng hình ảnh thiếu nữ áo dài với chiếc nón lá, Huế yên bình bên cầu Nhật Bản, lễ hội bên Bờ Hồ Hà Nội, và hình ảnh miền quê thân thương của cánh đồng cỏ, vi vu gió tại các tỉnh miền Nam như Tây Ninh, Mỹ Tho, Vĩnh Long…
スコールに自転車洗ふ待の子ら[5] (Takahashi Kenichi)
Cơn mưa dông
lũ trẻ
rửa xe đạp
(Quỳnh Như dịch)
Rõ là hình ảnh của thiên nhiên, của đời sống văn hóa quen thuộc của thành phố Hồ Chí Minh vào mùa mưa được các tác giả khắc họa thật là sinh động. Các thi sĩ thơ haiku người Nhật thật tinh tế khi đã làm giàu Bộ Bách khoa toàn thư Saijiki của họ bằng những thuật ngữ kigo mới bằng hình ảnh của một nơi vượt ngoài biên giới.
Thơ haiku Việt đã trải qua chặng đường khoảng hơn mười năm kể từ khi cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật- Việt lần đầu tiên được tổ chức vào hè năm 2007. Từ những bước đi bỡ ngỡ ban đầu, chưa quen thuộc với các quy luật, nguyên tắc… nay thơ haiku đã nở rộ khắp mọi miền đất nước. Nên chăng, thơ haiku Việt cũng cần xây dựng bộ chuẩn Tuế thời ký Việt. Nhờ có saijiki Việt, các nhà thơ haiku Việt sẽ có thêm nguồn tư liệu thuật ngữ để làm giàu đề tài sáng tác.
Và biết đâu, đến một lúc nào đó, các nhà thơ haiku Nhật phải vay mượn các thuật ngữ quý ngữ Việt để sáng tác thơ haiku Nhật từ chính bộ saijiki Việt. Bởi khi đó, saijiki Việt sẽ trở thành nguồn tài liệu quý báu cho các thi sĩ haiku Nhật tham khảo vô vàn những tinh túy về đời sống văn hóa từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam qua những từ khóa, quý ngữ được minh họa bằng chính những bài thơ haiku Việt của thi sĩ Việt.
Mưa Rước Cá[6]
mãi rơi trên cánh đồng
biệt tăm bóng cá
(Hồ Trường –
Giải ba Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật- Việt lần 3 năm 2011)
Chuồn chuồn kim
kết đôi trên cánh đồng
lúa trĩu bông
(Nguyễn Xuân Tấn, Đồng Nai –
Giải nhì Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật- Việt lần 5 năm 2015)
Chuồn chuồn kim là hình ảnh quen thuộc trong đời sống và của nền nông nghiệp Việt Nam, mà ngay từ thuở nhỏ chắc hẳn ai cũng nhớ đến. “Chuồn chuồn kim kết đôi trên cánh đồng trĩu hạt phải chăng còn là thể hiện niềm tin có tính phồn thực giáo từ ngàn xưa của cư dân trồng lúa nước của cư dân chúng ta?”[7]
Khi tham gia sáng tác thơ haiku tại Nhật, tôi đã thử đóng góp bằng một bài thơ nói về những cánh hoa phượng khô được ép vào từng trang nhật ký thưở học trò.
火炎樹を飽きずに拾い押し花に (Quỳnh Như)
kaenju wo / akizu ni hiroi / oshi hana ni
Chùm phượng vĩ
lượm ép mãi không thôi
những cánh hoa
Bài thơ sau đó được tờ báo “The Kumano Shimpun” đánh giá: “Với những đặc trưng gắn với đời sống mùa hè, phượng vĩ có thể trở thành một quý ngữ của thơ haiku Việt lắm chứ. Vì thế những bài thơ haiku về phượng vĩ hoàn toàn có khả năng trở thành bài thơ haiku sáng giá”[8].
Với tham vọng đó, ao ước sao một hành trình mới nghiên cứu thơ haiku: đi tìm saijiki Việt (Tuế Thời ký thơ haiku Việt). Và cũng chính nhờ từ tuyển tập các bài thơ haiku dự thi các Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật- Việt, từ các tuyển tập thơ haiku của các nhà sáng tác thơ haiku Việt có thể xây dựng được Bộ Saijiki Việt này chứ. Được chứ tại sao không
N. V. Q. N
[1] Yamashita Kazumi (1998), 『俳句への招待』 (Xin mời đến với thơ haiku), Shogakukan, Japan, tr. 15.
[2] Fuji Kunihito (1998), 「俳句の授業・俳句の技法 どう教え どう作るか」 (Giờ dạy thơ haiku – thi pháp thơ haiku – cách dạy và cách làm thơ), Meiji Tosho Co, Japan, tr. 201.
[3] Yamamoto Kenkichi (2016), 「ことばの歳時記 」 (Từ vựng của Saijiki), NXB Kadokawa, tr. 318.
[4] 「草樹」 Tạp chí Soju, Số 70 tháng 6 năm 2017, tr. 60.
[5] Kaneko Tota (Chủ biên)「世界大歳時記」(Sekai Dai Saijiki – Đại Tuế Thời ký Thế giới, NXB Kadokawa Shoten, Năm 1995, tr. 273)
[6] Tên gọi những cơn mưa cuối mùa ở miền Nam, thường gọi Tiết Mang Chủng, tháng 10 âm lịch, cũng là lúc cá trên đồng tìm đường ra sông. (Kỷ yếu Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật- Việt lần thứ 3 năm 2011, Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. HCM, tr. 17).
[7] Đoàn Lê Giang「Kỷ yếu Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật – Việt lần thứ 3 năm 2011, Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. HCM, tr. 45
[8] Sugiura Keisuke, Báo Kumano Shimpun, ngày 14/5/2017, tr. 3